và giá trị nhà nước thấp sẽ dẫn đến mức trợ cấp thấp hơn từ phía nhà nước.
Ngược lại, nếu nhà nước chịu cho thầu các dịch vụ (dù cho các tổ chức tình
nguyện hoặc các tổ chức thuộc khu vực tư nhân, hoặc lý tưởng là cho hai
loại tổ chức này cạnh tranh đấu thầu), chúng ta sẽ có thể khuếch trương
khối lượng và giá trị của mảng cung cấp dịch vụ với chi phí thấp vừa đủ, có
thể chấp nhận được.
Nguyên lý 80/20 gợi cho chúng ta điều gì về sự can thiệp kinh tế của nhà
nước?
Vấn đề gây tranh cãi lớn duy nhất giữa cánh tả và cánh hữu mà chúng ta
vẫn chưa xét đến là sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế. Nguyên
lý 80/20 không tin vào sự hoàn hảo của cơ chế thị trường, do nó bị ảnh
hưởng của những tổ chức phức tạp có thể hoạt động rất kém hiệu quả. Tuy
nhiên cơ chế thị trường phân quyền, trong đó người tiêu thụ có thể tự do
mua được giá trị, tạo động lực cho quá trình ác-bít và hiệu suất hoạt động.
Trên thực tế, sự can thiệp của nhà nước hầu như bao giờ cũng thiên hẳn về
phía người sản xuất (người sản xuất có thể vận động hàng lang rất hiệu quả
và đôi lúc, với những mức độ trung thực khác nhau, lật đổ nhà nước vốn lúc
nào cũng quan tâm đến tình trạng có việc làm trước mắt) và đi ngược lại
quyền lợi của người tiêu thụ. Chính sách chống tờ-rớt là chính sách duy
nhất mà nhà nước tỏ ra thiên về phía người tiêu dùng, và thậm chí ở đây
những thành tựu đạt được trong 2/3 thế kỷ qua có chăng cũng là quá bé nhỏ.
Nguyên lý 80/20 gợi ra rằng ác-bít và hiệu suất hoạt động có được điều
kiện thuận lợi nhất khi nhà nước can thiệp ít nhất vào các vấn đề kinh tế.
Điều này trái ngược hẳn với giá trị của sự can thiệp vào các vấn đề xã hội
(miễn là nhà nước không trực tiếp cung cấp các dịch vụ). Trong các vấn đề
xã hội, tiềm năng cải thiện bằng cách áp dụng Nguyên lý 80/20 quả là to
lớn. Lãng phí gây ra cho xã hội nói chung chỉ có thể giảm thiểu đến mức tối
đa khi xã hội tổ chức lại những hoạt động của mình một cách triệt để, và
các cơ chế chính trị là những cơ chế duy nhất làm cho điều đó xảy ra.