Về phần chiến phí, nhà vua yêu cầu hoặc giảm bớt tổng số tiền, hoặc nới
rộng thời hạn bồi hoàn. Như vậy không có việc mua lại (rachat) ba tỉnh, mà
chỉ xin chuộc lại (restitution)"
Vua Napoléon III chấp thuận việc soạn thảo một hiệp ước mới và trao
nhiệm vụ cho Classeloup-Laubat (Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa) cùng
Drouyn de Lhuys (Bộ trưởng Ngoại giao) làm đề án: hai vị Bộ trưởng lại
yêu cầu Aubaret chấp bút.
Gabriel Aubaret sinh năm 1825 tại Montpellier Pháp, vào hải quân
năm 1841, là người có năng khiếu ngôn ngữ, biết tiếng Ả Rập, Hoa và Việt;
đã tham dự trong quá trình soạn thảo hiệp ước Nhâm Tuất (5.6.1862). Ngày
28.12.1862, Aubaret tâm sự:
"Chúng ta cai trị bằng khủng bố, và tất cả chúng ta đều trở nên xấu xa
trong mắt người Annam. Chúng ta tuyệt đối chỉ sống bằng sợi dây treo cổ
và súng đạn. Dưới con mắt người Pháp, tôi cảm thấy ở đây tôi trở thành
một thuộc hạ xấu xa, sự tàn bạo xảy ra hằng ngày làm tôi phát điên: theo
tôi vào thời đại chúng ta đang sống, thời gian cứ thế trôi đi giữa những
cuộc đánh chiến bất công, và ở đó, chúng ta trở thành kẻ đàn áp những dân
tộc hòa hiếu, mà chẳng đem lại cho họ chút ơn huệ nào. Nhân danh việc
giáo hóa, chúng ta lại mang đến cho họ thuốc phiện và cờ bạc. Ý tưởng đạo
đức nhỏ nhoi nhất không bao giờ được đưa vào bất cứ lời khuyên nào, mục
đích của chúng ta là tiền bạc, và lúc ấy, giống như đảng cướp, chúng ta cứ
thế lấn chiếm một đất nước mà chúng ta không biết cách cai trị.
Phải thú thật rằng tính nết tôi hoàn toàn trái ngược với tất cả những cái
đó: tôi sung sướng với vai trò viết lách, chứ không phải một nhà cai trị, dù
sao đi nữa, ở cương vị này, tôi không phải phán xét và kết tội những con
người khốn khổ đã tử đạo vì lòng yêu thương đất nước mình. Chúng ta đã
lạm dụng sức mạnh một cách bất công nhất. Chúng ta sẽ không phải chịu
một hình phạt khủng khiếp nào đó hay sao? Anh không thể hình dung ra
được nỗi đau đớn khủng khiếp, sự buồn nản mà chúng ta đã gây ra trên một
vùng đất heo hút, xa lạ với chúng ta, vì nó được gọi là Nam Kỳ. Chắc chắn
Thiên Chúa sẽ cân nhắc giữa những lương dân bất hạnh, có nếp sống hiền