binh thuyền, gấp ba người Pháp trong ý luôn luôn muốn trả mối thù mất
Hợp Chúng Quốc. Giả sử thời cơ đã đến mà có ta ở trong đó nói ra nói vào,
khéo điều đình khêu gợi, vạn nhất nổ chuyện ra thì Anh Cát Lợi chận
đường thủy, Mặc Địa Lợi áp đảo đường bộ, Y Pha Nho bọc phía Nam, để
trả cái giận làm chung mà chiếm lợi riêng một mình. Hà Lan, Bỉ Lợi thì
đón phía Bắc, Nga La Tư theo sau tiếp ứng. Ở phương Đông người Anh
đem binh lính Ấn Độ chẹn đường về, còn ta thì ngồi mà hưởng lợi. Đấy là
một mối lợi rất to.
Sáu món lợi kể trên là tôi hãy tạm lấy cái dễ thấy, cái công dụng lớn
mà nói, còn như nhân việc này mà xoay dần, tùy cơ mà chuyển bắt, thường
thường nhân nhỏ mà được lớn, như các việc đã qua ở các nước Tân Thế
Giới, khó có thể kể hết. Còn như sự sắp đặt của Triều đình, vốn không phải
người ngoài thấy được.
Nhưng làm được sáu điều lợi trên, dĩ nhiên còn có nhiều đường lối,
tùy sự thế mà xoay chuyển, không thể bàn nhất định trước được, sợ vướng
vào gàn dở, không dám dài dòng.
Nay kính bẩm.
Hiệp ước chuộc lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường được ký
kết tại Huế ngày 15.7.1864. Năm ngày sau, "Aubaret rời kinh đô Việt Nam.
Chỉ khi Aubaret đang ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam, một phản lệnh
(contreordre) của Paris yêu cầu đình hoãn việc thương lượng, mới tới tay
ông"
. Thế là việc chuộc lại ba tỉnh bất thành.
Về sự cố trên, sử Thực lục đã chép rõ: Tháng giêng năm Ất Sửu
(1865), "chủ súy nước Phú là Gia-lăng-đi-e (La Grandière) phái người là
Sơ-Ba-Lê đi tàu chạy máy bằng hơi nước đến đồn cửa biển Thuận An, đưa
thư xin vào chầu và tâu bày định việc hòa ước... Ba Lê lại nói: lần này vẫn
giữ ước cũ về năm Nhâm Tuất... Bọn Thanh Giản đem việc tâu lên. Vua
giao cho phủ Tôn nhân và đình thần bàn định, đều nói: vua tôi nước ấy đã
không chịu cho chuộc lại ba tỉnh (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa), nếu
lại viết quốc thư để hỏi thì họ lại cố chấp lời nói trước, sợ có tổn đến quốc
thể chăng? Xin sai quan Thương bạc viết thư gửi cho đại học sĩ nước ấy là