xưởng, bây giờ chàng không muốn xem lại tác phẩm chàng. Chàng đi ra
sân, ngồi trên thành giếng, nhìn dòng nước con con tuôn ra không ngừng từ
chiếc máng xuống đến bệ đá sâu, dòng nước đổ tạo thành đợt sóng li ti, kéo
theo những bọt không khí chìm sâu xuống rồi nổi lên như từng chuỗi ngọc
trắng. Chàng nhìn thấy bóng hình in trong gương nước, chàng nghĩ tên Đan
Thanh đó, tên đang nhìn chàng từ đáy nước sâu không còn là tên Đan
Thanh của tu viện hay tên Đan Thanh của cô gái Liên Đài, cũng không là
tên Đan Thanh của rừng thẳm. Chàng tự nhủ là mình, cũng như tất cả mọi
người, sống trôi lăn, biến chuyển không ngừng để sau cùng vở tan trong khi
hình ảnh do người nghệ sĩ sáng tạo vẫn không đổi dời, vẫn trường tồn mãi
mãi.
Có phải chăng căn nguyên của mọi nghệ thuật và có lẽ ngay cả của
mọi tư tưởng chính là sự sợ hãi đối với cái chết. Chúng ta sợ chết, chúng ta
rùng mình trước cuộc đời dâu bể, ta buồn nhìn cánh hoa tàn úa, lá rụng mỗi
năm; hiển nhiên trong lòng chúng ta cảm thấy mình cũng là sinh vật phù
du, chẳng mấy chốc sẽ tàn tạ rã rời. Khi là nghệ sĩ, ta sáng tạo những hình
dáng, hoặc là nhà tư tưởng ta tìm ra những định luật hay lập thành những ý
nghĩ, chúng ta đều hành động như thế để cứu vãn một cái gì trong trò đùa
ma quái ấy, để giữ lại một cái gì tương đối dài lâu hơn chúng ta. Người đàn
bà mẫu pho tượng Đức Mẹ có lẽ nhan sắc đã tàn tạ, hoặc đã chết, ngay
chính ông thầy không lâu ông cũng sẽ chết, những kẻ khác ở trong ngôi nhà
này, ăn ở chiếc bàn kia, nhưng tác phẩm của ông vẫn còn đó, trong nhà
nguyện lặng lẽ, nó sẽ còn rạng rỡ hàng trăm năm sau với nụ cười buồn
trong tuổi thanh xuân bất diệt.
Chàng nghe tiếng ông thầy bước xuống thang và đi nhanh về phía
xưởng. Không Lộ đi qua đi lại, thỉnh thoảng nhìn vào bức họa của chàng,
sau cùng ông ta dừng lại bên cánh cửa sổ và ngập ngừng nói với giọng khô
khan:
- Ở đây kẻ học nghề thường mất ít ra là bốn năm và phụ huynh phải
trả thù lao cho thầy.