- Ở Ba-lan, tôi đã ăn cái món dơ-ra-du và phờ-lác. Ngon tuyệt; ăn bánh
bột viên, món cơ-nút-sơ, món ma-duyếc- ca tẩm đường, uống rượu stác-ca.
Ở bên Pháp thì ăn đủ các loại ra-gu, rau, ác-ti-sô, gà vịt non quay và nhấm
nháp các thứ rượu thực đế vương. Ở Hy-lạp, mồm tôi sặc những mùi tỏi
như một mụ tiểu thương già và tôi ăn hồ tiêu nhiều không thể tả được,
tưởng đến cháy cả ruột gan, Và ở đây, lợn sữa, ngỗng, gà tây ăn thì mê lắm;
món va-rê-ni-ki là cái món bột trắng luộc nhồi anh đào, phó-mát trắng và
tưới kem mới đánh lên. Hôm nay thế nào anh cũng phải nếm thử một tý cho
biết mùi.
- Ồ, không, không! - Gơ-ruyn cười nói và đưa tay ra như muốn chống đỡ
một cái gì nguy hiểm - Tôi còn muốn về được Bá Linh, trông thấy vợ thấy
con.
Vừa lúc đó, người sĩ quan phụ tá tới báo tin rằng bộ đội thiết giáp Xô-
viết đương rút lui, dùng hỏa lực yểm hộ cho bộ binh rút; rằng không quân
đỏ không còn thấy bay lượn trên trận địa bộ binh nữa; rằng pháo các cỡ đã
ngừng bắn.
- Đó, cái mà anh gọi là mù mịt đấy! - Gơ-ruyn nói.
- Không, không phải thế đâu. - Bơ-ru-smuy-le cau mày đáp -Tôi biết tính
anh chàng I-van dai như đỉa.
- Anh vẫn cứ tin vào cái mù mịt ấy ư? - Gơ-ruyn hỏi với vẻ chế giễu.
- Tôi tin vào vũ khí của chúng ta. - Bơ-ru-smuy-le trả lời - Quân Nga có
thể là đã mất sức rồi và cũng có thể là không. Không thì đúng hơn, Nhưng
điều quan trọng đối với tôi là cái này...
Hắn ngửa bàn tay vỗ xuống tấm bản đồ.
Trên tấm bản đồ đó, giữa những chỗ màu xanh lá cây của những khu
rừng và màu lam của sông nước, có vẽ những vòng tròn bằng chì đỏ đánh
dấu những trận địa pháo và súng cối Đức.
- Đấy, tôi tin là tin vào cái này. - Bơ-ru-smuy-le nhắc lại.
Hắn nói những câu đó với một giọng chậm rãi có ngụ ý. Và Gơ-ruyn
thấy hình như Bơ-ru-smuy-le muốn ám chỉ không phải chỉ là sự cố gắng
đeo đuổi chiến tranh của quân Nga, mà còn đến cả vấn đề trong câu chuyện
hôm trước.