ý thấy có một con chó cái đem giấu con vào một hầm trú ẩn. Hết báo động,
nó lại đưa con ra ngoài. Còn gà, vịt, ngỗng nữa, chúng nó không khổ sở vì
bọn Đức hay sao? Ngay ở đây, ở khắp nơi, ở trong rừng, mình để ý thấy
chim muông đều hoảng hốt: mỗi lần có máy bay tới, chúng nó bay lên hàng
đàn, kêu quang quác, làm nhộn lên, nhốn nháo. Biết bao nhiêu rừng đã bị
phá trụi! Biết bao nhiêu vườn tược! Hoặc là vừa rồi mình nghĩ bụng như
thế này: mình tác chiến trên một cánh đồng. Chúng mình cả thảy gần một
nghìn người bố trí ở đấy. Thế là, mẹ kiếp, cuộc sống của loài kiến, loài
muỗi kia bị một mẻ đảo điên. Và nếu tụi Đức thả hơi ngạt và chúng mình
cũng ăn miếng trả miếng, thì trong rừng, ngoài đồng, tất cả sẽ lộn tùng
phèo hết và chiến tranh sẽ đụng tới cả đám chuột, đám dím. Nó sẽ bóp chết
cả chim muông, sâu bọ. Chúng nó trốn đâu cho thoát?
Anh nhổm dậy và nhìn các bạn, nói bằng một giọng nửa buồn nửa vui:
- Chao ôi! Đời đẹp quá, các cậu nhỉ! Phải một ngày như ngày hôm nay
mới thấy được như vậy. Cứ nằm ỳ ra đây một triệu năm cũng không chán.
Nằm mà thở cho đã !
Bô-ga-rép lắng nghe tiếng vang của trận đánh đang diễn ra. Những tiếng
nổ bỗng dịu đi, những máy bay mang sao đỏ không bay lượn trên những vị
trí quân Đức nữa. Đợt xung phong bị đánh lùi chăng? Méc-xa-lốp không
chọc thủng nổi phòng tuyến Đức, để có thể hiệp đồng với Bô-ga-rép cùng
công kích chăng? Lòng Bô-ga-rép thắt lại, lo lắng. Ý nghĩ về khả năng thất
bại của Méc-xa-lốp đè nặng trong anh thật day dứt. Anh không trông thấy
ánh sáng mặt trời nữa; anh thấy bầu trời nặng trĩu như xỉn lại, tối sầm; cánh
rừng thưa bát ngát trải ra trước mắt anh bị xóa nhòa đi, cây cối, ruộng đồng,
tất cả đã biến mất. Chỉ riêng còn lòng căm thù bọn Đức là tràn ngập người
anh.
Ở đây, tại ria cánh rừng này, anh hình dung thấy một cách sâu sắc cái sức
mạnh đen tối đang tràn vào đất nước anh. Đất nước của nhân dân! Những
mơ ước của Tô-mát Mo-rơ và những kế hoạch không tưởng của Ô-oen,
những tác phẩm con đẻ tư tưởng của những nhà triết học Pháp, những ký
ức của các chiến sĩ tháng Chạp
, những bài báo của Bi-ê-lin-xki và Héc-