thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày: Câu này đại ý cũng như câu
chữ nho: " Hôn dạ khất ái nhi, kiêu nhân bạch nhật"
trong bình: là tên bức bình phong, nơi ngăn phòng ngoài với phòng ngủ.
Di, Tề: Bá Di, Thúc Tề là hai nghĩa-sĩ đời nhà Thương, Chu Vũ-Vương
đánh vua Trụ - Vua nhà Thương- hai ông can không được, sau khi nhà Chu
đã được nước, hai ông liền lên ẩn cư trên đỉnh núi Thú-dương, hái rau vi ăn
thay cơm, dù đói chết cũng không ăn thóc của nhà Chu.
mấy câu: Thơ đề tranh Di, Tề nguyên văn chữ Hán:
"Côn trọng đương niên ngã Thú-dương,
Chí Kim lưu đắc tính danh hương,
Nhược giao liệt-sĩ như kim tại,
khởi nhẫn quần gian lập miếu đường,"
Ý nói bấy giờ hai anh em ông chết đói trên núi Thú-dương, mà vẫn còn để
họ tên thơm tho đến bây giờ. Nếu ngày nay còn có liệt-sĩ như thế, há chịu
để cho lũ gian thần đứng ở triều-đình.
Có người đã dịch:
Thủa xưa ở núi Thái hái rau Vi,
Muôn kiếp danh thơm, miệng ấy bi,
Ví khiến đời nay còn kẻ ấy,
Miếu-đường chi để lũ gian-phi.
thanh ứng khí cầu: nghĩa là cùng tiếng thì hưởng-ứng với nhau, cùng chí
khí thì tìm nhau.
phủ trời: do chữ thiên-phủ, ý nói vững vàng như kho nhà trời.
hoàng-thành: thành nhà vua.
kỳ-đài: cột cờ
nước nhược: bởi chữ nhược-thủy, nơi tiên ở.
nguồn đào: bởi chữ đào-nguyên : cõi tiên
ngũ phượng: lầu đắp năm chim phượng.
lưỡng long: thềm xây hình hai con rồng.
[Back to the top]