Nghĩa là:
Sinh gái chớ vôi thương xót, sinh trai chớ vội vui mừng, trai chẳng được
phong hầu mà gái được làm bà phi, người coi con gái là cái cửa võng làm
vẻ-vang cho nhà cửa.
Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân: câu này do câu thơ cổ :
"Thùy ngôn thốn thảo tâm,
Báo đáp tam xuân huy "
Ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba mùa
xuân. Đó là lời một người con đi xa nhớ mẹ -tấc cỏ ví như con, ba xuân ví
như cha mẹ.
kẻ Tấn, người Tần: chữ Tấn Tần, đây nói về sự chia rẽ ra làm đôi ngả như
Tấn với Tần.
chữ cù: bởi câu : ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao : thương thay cha mẹ ta,
sinh ta ra khó nhọc.
thập nữ viết vô: mười con gái cũng là không.
biệt thi: thơ từ biệt, nguyên văn chữ Hán bài thơ của Hạnh Nguyên :
Nhật nhật khuê trung tư phượng-hoàng,
Mộng hồn nhất đán viễn tha hương,
Tư thân bất đắc qui nguyên lý,
Chỉ vị can qua xuất họa đường,
Chỉ thuyết cao đường thượng thị phụng,
Khởi tri kim nhật vĩnh phân mang,
Tòng kim nan đổ song thân diện,
Yêu đắc tượng phùng mộng lý thường.
Nghĩa là:
Ngày ngày ở trong buồng thêu chim phượng hoàng,
mộng hồn bỗng một buổi đi xa đất khách,
nhớ mẹ cha chẳng được trở về làng cũ,
chỉ vì gươm giáo nổi lên ở nơi buồng thêu.
Những tưởng chốn thềm cao hầu hạ cha mẹ,
biết đâu ngày nay chia cách mãi.
Từ đây khó lòng trông thấy mặt hai thân,