nghĩa quân và Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh, cương quyết đối phó. Đứng
sau phòng tuyến thách thức bọn Pháp. Ông dùng loa chửi rủa thậm tệ, rồi
day về phía nghĩa quân để động viên tinh thần.
Đến phút quyết liệt, ông mặc áo màu đỏ sậm (màu tấm trần điều mà giáo
phái đang thờ phượng)và cắt từng lọn tóc của mình phân phát cho nghĩa
quân (một kiểu giống như phù phép, cốt để thuộc hạ lên tinh thần).”(theo
sách đã dẫn)
Phạm Văn Sơn ghi chuyện:
Đầu tháng hai 1973, Pháp xua quân vào phá đồn Hờ ở Cái Dầu, uy hiếp
đường giồng Nghệ rồi kéo dần vào rừng. Họ nả đại bác lên phía trước và
bắt dân chúng dọn đường sau. Quân Bảy Thưa tuy tinh thần rất cao, nhưng
chống giữ không nổi. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần. Pháp
không dám tiến mau vì ngột nắng và sợ đĩa. Ngày 20 tháng 2, quân Pháp từ
Châu Đốc đánh vào đồn Cái Môn, súng quân Việt bắn không được xa, phát
nổ phát không nên chẳng bao lâu Pháp quân tràn vào được.
Cùng ngày ấy từ phía Vĩnh Thanh, cờ Pháp tiến vào đuổi quân Việt tới
ngọn rạch Hang Tra là nơi Trần Văn Thành chỉ huy chiến cuộc. Con thứ tư
của ông Thành là Trần Văn Chái làm tiên phong, đề đốc Văn tức đội Văn
giữ hậu tập. Đến gần tối thì Chái bị thương ở đùi.( Sau khi bị thương, Trần
Văn Chái bị bắt và sau đó tuẫn tiết trong nhà ngục Châu Đốc, bỏ lại người
yêu vừa mới hứa hôn, năm ấy Chái mới 18 tuổi), Văn tử trận…
Xong trận, Pháp thu hết các súng nặng, nhẹ; hủy hết cả lò đúc đạn dược,
rồi nổi lửa đốt hết doanh trại của nghĩa quân 3 ngày mới tăt…”(Việt sử tân
biên, sách đã dẫn)
Sau trận đánh, chủ tỉnh Emile Puech nhận xét:
“Cai tổng Lý Mun và Trần Bá Tường, từng tham gia đánh nhiều lần, nhưng
trong trận này, quả là mất tinh thần. Họ gan lỳ khi bị bao vây, hứng chịu
hỏa lực mạnh, chứng tỏ uy tín Trần Văn Thành khá lớn”(Sơn Nam, sách đã
dẫn)
3.3Hy sinh:
Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế cho biết: