nên đến gần.
Về tế tự, Nho Giáo chú trọng đến nghi lễ tế Trời. Trời được quan niệm như
là một Chúa Tể càn khôn, sinh hóa muôn vật, chủ trì vận mệnh của vũ trụ
và con người. Vua, tức Thiên Tử, mới có quyền tế Trời để cảm thông giữa
Trời Đất với con người. Tục này có từ thời Phục Hy. Tại Huế, Vua Gia
Long có xây một đàn Nam Giao (Nam là phương Nam. Giao là khoảng
cách kinh thành 100 dặm) ở làng An Cựu, phía Nam thành phố Huế. Hàng
năm vua tới đó để tế Trời, gọi là tế Nam Giao. Đến thời Pháp thuộc, ba năm
mới tế một lần. Lần tế Nam Giao cuối cùng là ngày 29.3.1942 do vua Bảo
Đại chủ tế.
Nhìn qua lịch sử, chúng ta thấy trong Tam Giáo, đạo Nho được người
Trung Hoa cũng như người Việt Nam trọng hơn cả. Đạo Nho đã ăn sâu vào
lối suy tư và nếp sống của người Việt Nam. Phật Giáo cũng có lúc thịnh,
nhưng chỉ thịnh có một thời, rồi lại nhường chỗ cho Nho Giáo. Ngay cả
trong thời cực thịnh của Phật Giáo như thời Lý-Trần, Nho Giáo cũng được
dùng để trị quốc và giáo hóa dân. Khi đề cập đến Nho Giáo tại Việt Nam,
Toan Ánh đã viết :
"Ảnh hưởng của Nho Giáo hiện nay vẫn còn vững chắc trong đời sống của
dân chúng Việt Nam, và những phong tục của dân ta, rất nhiều bị chi phối
bởi Nho Giáo, nếu không bắt nguồn hẳn từ Nho Giáo."
Thật ra, ngày nay Nho học không còn thực dụng và đã trở thành môn cổ
học. Nho Giáo đã được cải biến. Trong tam cương (vua tôi, cha con, vợ
chống) thì đạo quân thần (vua tôi) không còn nữa, nhưng đạo phụ tử, phu
phụ vẫn được người Việt quý trọng. Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín)
vẫn còn là đạo làm người của người Việt Nam. Tứ hạnh (hiếu, đễ, trung,
tín) và tứ duy (lễ, nghĩa, liêm, sỉ) của người con trai vẫn là tiêu chuẩn để
đạt tới càng gần càng tốt. Trong tam tòng của người con gái thì trách nhiệm
tòng phụ, tòng phu và tòng tử đã được giảm nhẹ đến mức tối thiểu. Người
phụ nữ không còn bị ràng buộc chặt chẽ như ngày xưa, nhưng một sự