trọng vào các năm 1916, 1019 và 1134. Mỗi đợt có khoảng 1.000 người ở
Thủ Đô Thăng Long được chọn để xuất gia.
Các chùa được xếp vào loại danh lam thắng cảnh đều được triều đình cấp
ruộng đất. Đối với các chùa không được cấp ruộng đất, dân chúng cúng
dường ruộng đất hay lương thực cho các tăng ni sinh sống. Các tăng ni
không phải lo gì đến sinh kế.
Vì đời sống và địa vị của các tăng sĩ được nâng cao nên số người xuất gia
tăng nhanh, không còn kiểm soát được, làm phát sinh nhiều tệ trạng. Có
người xuất gia vì muốn trốn nghĩa vụ quân sự, có người xuất gia chỉ vì sinh
kế gặp khó khăn, v.v. Năm 1179, vua Lý Cao Tông phải ra lệnh khảo hạch
lại các Tăng quan. Năm 1198, vua ra lệnh gạn lọc và sa thải bớt các tăng sĩ
không xứng đáng. Tăng trở thành một thứ công lại. Mọi việc tuyển mộ,
khảo hạch, thăng chức, sa thải ... đều do triều đình quyết định.
Đến đời Lý Cao Tông (1 176 - 1210), Nho sĩ Đàm Dĩ Mộng đã tâu lên vua
như sau :
"Bây giờ tăng đồ gần bằng số đinh phu (người có thể làm công dịch), chúng
tự kết bè, bầu chủ, họp nhau thành từng bầy, chúng làm những việc bẩn thỉu
hoặc ở giới trường, tĩnh xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở trong trai
phòng tĩnh viện mà âm thầm gian dâm. Ngày ẩn tối ra, thật như một đàn
cáo chuột, chúng làm bại tục phương giáo, dần dần thành thói quen, nếu
không cấm thì càng ngày càng thêm quá lắm."(20)
2.- Những ưu đãi dưới đời nhà Trần
Dưới thời nhà Trần, nhất là từ Trần Thái Tông (1225 - 1258) đến đời Trần
Thuận Tông (1388 - 1398), Phật Giáo hoàn toàn được ưu đãi. Vua theo các
Thiền Sư học đạo Phật thì giới trí thức cũng phải theo học đạo Phật để được
trọng dụng. Các khoa thi Tam Giáo được mở ra. Tôn giáo cũng được coi
như một môn phải học khi muốn ra làm quan. Vua theo Phật Giáo nên cung
cấp tiền xây chùa, đúc tượng, đúc chuông và cấp ruộng cho các chùa sinh
sống.
Thời cực thịnh nhất của Phật Giáo là thời Trần Anh Tông (1293 - 1314),
tăng sĩ được triều đình cấp Độ Diệp, tức chứng minh thư. Độ Diệp được coi
như một thứ bùa hộ mệnh, đi đến chùa nào cùng môn phái đều được chu