cấp đầy đủ.
Các cao tăng được chọn làm Quốc sư giúp vua trị nước. Có rất nhiều Thiền
Sư xuất thân từ Sơn Môn Yên Tử đi làm Quốc Sư như Viên Chứng, Đại
Đăng, Tông Cảnh, Bảo Phác, Phù Vân, Vô Trước, Quốc Nhất... Đặc biệt có
hai Quốc Sư nổi tiếng đời Trần Thái Tông (1225 - 1258) là Trúc Lâm Quốc
Sư ở núi Yên Tử (đừng lầm với Thiền Sư Trúc Lâm là vua Trần Nhân
Tông) và Đại Đăng Quốc Sư, anh em đồng sư với vua Trần Thái Tông.
Chùa chiền mọc lên khắp nơi. Vua xây chùa, quan xây chùa, dân cũng xây
chùa. Vào đời nhà Trần có khoảng 9.500 ngôi chùa. Tượng Phật được đúc
dưới mọi hình thức. Riêng phái Pháp Loa thuộc Trúc Lâm đã đúc đến 1.300
tượng Phật lớn nhỏ.
Các tự viện được triều đình cấp ruộng. Vua Trần Anh Tông lấy 100 mẫu
ruộng của triều đình cúng cho chùa Bảo Ân của tông phái Trúc Lâm và 500
mẫu để phân phát cho các chùa khác. Riêng chùa Quỳnh Lâm đã có trên
1.000 mẫu ruộng. Tại chùa này, triều đình chỉ định 1.000 canh phu đến cày
ruộng cho chùa. Đối với các chùa không được cấp canh phu, triều đình cho
lập chế độ tam bảo nô, quy gồm những kẻ mồ côi được chùa nuôi dưỡng,
những kẻ phạm pháp được chùa bảo lãnh và những người cúng hết ruộng
cho chùa rồi xin vào hàng ngũ tam bảo nô. Những người gia nhập tam bảo
nô được cấp đất làm nhà và canh tác. Để đổi lại, họ phải cày ruộng cho
chùa.
Do sự ưu đãi giới tăng sĩ của triều đình, số người xuất gia ngày càng đông,
lên gần bằng số đinh phu (tức người có thể làm công dịch). Riêng tông phái
Trúc Lâm đã có 15.000 tăng. Tổng số tăng trên toàn quốc không dưới
75.000 người. Thời đó, giặc giã liên miên, hết đánh Chiêm Thành lại đánh
Tàu. Mọi công dân đến tuổi đều phải thi hành nghĩa vụ quân sự, ngoại trừ
những người xuất gia, nên cửa thiền trở thành một nơi ẩn náu tốt cho những
người trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
3.- Lập Giáo Hội nhà nước
Năm 1278, vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Khâm
(1258 - 1309). Ngày 12 tháng 2 năm Mậu Dần, Thái Tử Trần Khâm lên
ngôi, tức Trần Nhân Tông. Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho