rằng tôi đã cung cấp số liệu cho mục đích xem xét và thúc đẩy tiến trình
thực hiện kế hoạch tấn công trên không và tăng cường tấn công trên bộ, thì
không phải là một ký ức vui vẻ gì. Cũng không hẳn lúc đó việc này đã
không làm tôi thấy phiền lòng.
Sáu ngày sau cuộc tấn công đầu tiên của chiến dịch Sấm rền, 2 tiểu đoàn
lính thuỷ đánh bộ đã đổ bộ lên Đà Nẵng bằng đường không và đường biển
để đảm bảo an toàn cho sân bay ở đó. Đại sứ Taylor và Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng McNamara, hai cố vấn cấp cao nhất của Mỹ - những người đã lên án
mạnh mẽ việc đưa các lực lượng bộ binh Mỹ tới Việt Nam, đã phải miễn
cưỡng chấp nhận việc triển khai này. Tuy nhiên, họ không thể bỏ qua
những lời cảnh báo khẩn cấp, sau cuộc tấn công vào Biên Hoà, rằng chúng
ta không thể chỉ đơn giản dựa vào Quân đội Việt Nam cộng hoà (ARVN) để
có được sự đảm bảo an toàn cho các hoạt động không quân của chúng ta ở
phía ngoài khu căn cứ. Dù sao, Taylor và McNamara vẫn quyết tâm ngăn
chặn việc thực hiện bước tiến đầu tiên trong việc giành quyền diều khiển
cuộc chiến tranh trên bộ, hoặc kể cả việc tham gia vào cuộc chiến tranh đó.
Cấp trên của tôi cũng thế. Tôi nhớ lúc đó - vào buổi sáng ngày 2 tháng Ba,
khi thông báo tới - tôi nghe thấy John kêu lên khi ông ta nhìn thấy các chỉ
thị vào phút chót, "Ôi lạy chúa? chúng ta sẽ phải đưa quân lính thuỷ đánh
bộ sang! Nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ thoát được! Lính thuỷ đánh bộ
đã đổ bộ? Chúng ta sẽ phải quan tâm tới việc này, chúng ta sẽ tới để giành
thắng lợi trên bộ. Không gì có thể khác ngoài lính thuỷ đánh bộ?" Ông ta ra
lệnh Lữ đoàn không vận 173, đang đóng quân ở Okinawa, được cử sang
thay thế cho binh chủng lính thuỷ đánh bộ đang trên đường đi. Ông ta
không để lộ ra lý do của việc thay đổi thất thường vì sợ làm đảo lộn mọi kế
hoạch dự phòng bất trắc của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân và
CINCPAC - vì thế sự mâu thuẫn nhỏ này trong mối quan hệ giữa giới quân
sự và dân sự cho tới nay vẫn chưa được giải thích trong các báo cáo mang
tính lịch sử của ông ta.