hơn khi được biết miền Nam Việt Nam, nơi mà Xô viết ủng hộ phe Cộng
sản, sẽ bị đánh bại với sự trợ giúp của chúng tôi. Nhưng những cuộc tranh
luận với viên đại tá đã làm tôi tin rằng miền Nam Việt Nam không phải là
nơi đó.
Khi tôi trở lại Công ty Rand một tháng sau, thông điệp của tôi tới các cấp
trên là, tốt nhất nên tránh xa Việt Nam, tránh xa các nghiên cứu chống bạo
loạn, ít ra là về Việt Nam. Tôi nói, chúng ta đang bị lúng túng ở đó và tình
hình sẽ không khá khấm hơn, người ta sẽ cản trở và bôi nhọ mọi thứ liên
quan tới Việt Nam vì đó sẽ là một thất bại. Họ sẽ phải hứng chịu một số
phận như những người dính líu vào vụ Vịnh Con Lợn, trước đó chỉ vài
tháng. Bản thân tôi cũng quyết định không làm gì liên quan tới Việt Nam.
Một thời gian ngắn sau đó, Chính quyền Kennedy đã thể hiện một thái độ
hoàn toàn khác. Vài tuần sau khi tôi từ Việt Nam trở về, một đoàn cố vấn
của Nhà Trắng dưới sự chỉ huy của hai cố vấn cao cấp của Tổng thống là
tướng Maxwell Taylor và W. Rostow đã tới Sài Gòn để nắm bắt tình hình.
Họ phải đi đến quyết định cử các lực lượng đổ bộ Mỹ sang Việt Nam. Ngay
sau khi họ trở về một tháng, Nhà Trắng tuyên bố tăng cường sự can thiệp
của Mỹ vào Việt Nam. Giữa tháng mười một, Tổng thống Kennedy thực
hiện một đợt tăng cường nhân viên quân sự Mỹ tại Việt Nam, phá vỡ điều
khoản đã được đặt ra trong Hiệp định Geneva năm 1954. Ông ta tăng gấp
đôi số cố vấn quân sự trong hai tháng cuối của năm 1961 và cùng với các
đơn vị hỗ trợ cho các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam: các đại đội
trực thăng các chuyên gia thông tin, vận tải, hậu cần và tình báo.
Tôi thực sự không ngạc nhiên về việc này. Tôi rất vui vì trái ngược với sự
dự đoán của báo chí những tuần trước, tổng thống đã không gửi thêm các
đơn vị chiến đấu của Mỹ. Dù sao, tôi vẫn cho rằng sự can thiệp gia tăng của
Mỹ đã đi sai hướng. (Sự có mặt của cố vấn Mỹ đã tăng tới 12.000 người