hồ lại bị người ta kết lội như thế, về vấn đề Đông Dương. Tôi hỏi, với đôi
chút sỗ sàng: "Điều gì khiến ông ta trở nên thông minh như vậy?"
"Chết tiệt!", ông ta đập tay xuống mặt bàn. Tôi giật mình nhảy dựng lên
trong ghế bành. "Vì chúng ta đã và đang ở đó!", ông ta lại đập bàn lần nữa.
Gương mặt ông ta co rúm lại vì tức giận và đau đớn: "Chúng ta đã ở đây từ
năm 1951. Chúng ta đã chứng kiến những gì xảy đến với quân Pháp…
Chúng ta đã chứng kiến… Anh trai tôi đã nhấn mạnh, nhấn mạnh rằng,
đừng bao giờ để những chuyện đó xảy ra với chúng ta".
Tôi đã gặp Bobby Kennedy đôi lần trong vài tháng sau đó, có lúc chúng tôi
có những cuộc thảo luận khá lâu, nhưng đây là lần duy nhất tôi chứng kiến
một sự bùng nổ cảm xúc ở ông ta như thế. Nó gây một ấn tượng mạnh đối
với tôi. Tôi đã và vẫn sẽ tin tưởng vào ông ta, rằng anh trai ông ta đã khẳng
định sẽ không bao giờ gửi quân sang Đông Dương, và rằng ông ta đã sẵn
sàng chấp nhận cái gọi là "giải pháp Lào" nếu như cần thiết để tránh phải
đưa quân sang. Nếu đúng như thế thì, những lời buộc tội mang tính chủ
quan và thái độ sẵn sàng đã chứng tỏ John F. Kennedy là một người có
quan điểm khác biệt rất có ý nghĩa đối với sự đánh cược của chúng ta và
tôn trọng chiến lược đã được vạch ra ở Việt Nam từ thời các Tổng thống
Lyndon Johnson và Richard Nixon, mà không một ai trong số họ chia sẻ cái
cảm giác bị ép buộc cũng như sự sẵn sàng thừa nhận thất bại trong một số
trường hợp nào đó. Nhưng liệu Tổng thống Kennedy, nếu không bị ám sát,
có những cư xử phù hợp trước sự lên án này trong việc phải đương đầu với
các cuộc khủng hoảng trong năm 1965 hay không (như em trai ông ta đã
thừa nhận) lại là một vấn đề khác, và chưa thể có câu trả lời.
Sau khi nghe Bobby nói chuyện, tôi băn khoăn tự hỏi rằng điều mà họ đã
mắt thấy tai nghe ở Việt Nam đã tác động đến suy nghĩ của ông ta mạnh mẽ
đến như vậy. (Và đến giờ phút này nó cũng tác động đến tôi như thê). Họ
đã ở đó bao lâu? Phải mất hàng năm trời trước khi tôi biết được câu trả lời.