Goldwater, họ thấy sự ủng hộ của họ cho nghị quyết này như một cách để
tránh leo thang ở Việt Nam, mà chỉ có Goldwater là đầy hứa hẹn.
Nhưng tất cả đảm bảo của Fulbright đều không có căn cứ giống như của
Johnson, Rusk và McNamara. Chỉ khác một điều là ông ta đã không biết về
điều đó. Ông ta bị lừa dối và ngược lại ông ta đã lừa dối lại Thượng viện
mà không thành văn. Tất cả những lừa dối này có ý nghĩa quan trọng hơn
hẳn.
Chúng ta tìm cách để tránh mở rộng chiến tranh? Chính Tổng thống Mỹ,
mùa hè năm đó đã bí mật và thẳng thắn đe doạ Hà Nội bằng một cuộc chiến
tranh rộng hơn chống lại chính quyền Bắc Việt nếu các nhà lãnh đạo của
Bắc Việt không tiến hành các bước để kết thúc cuộc xung đột mà không ai
trong chính quyền nghĩ rằng họ có thể làm như thế. Các bức điện của John
cho Hồ Chí Minh thông qua một người trung gian người Canada cũng cho
thấy một lời cảnh báo bí mật của Tổng thống Mỹ với các nhà lãnh đạo Hà
Nội là sẽ mở rộng chiến tranh nếu họ không chấm dứt được xung đột.
Những lời cảnh báo được chuyển tới Bắc Việt qua Blair Seaborn, người
Canada, một thành viên của Uỷ ban Giám sát quốc tế (ICC) tổ chức này
được thành lập để giám sát quy tắc của các Hiệp ước Geneva 1954 và 1962.
Trong cuộc gặp đầu tiên ở Hà Nội ngày 18 tháng tám, ông ta đã gặp riêng
Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Seaborn đã chuyển tiếp lời cảnh báo của các
quan chức Mỹ phối hợp với người Canada rằng: "Sự kiên nhẫn của quan
chức và công chúng Mỹ đối với sự khiêu khích của Bắc Việt đang dần suy
giảm" và nếu cuộc xung đột vẫn tiếp tục leo thang thì "tất nhiên chính Bắc
Việt sẽ phải gánh chịu hậu quả to lớn".(15)
Trong số những người ủng hộ những lời cảnh báo này, chủ yếu là các cố
vấn dân sự và quân sự của Tổng thống, không ai dám coi đó là những trò