được "lại quả" nhiều hơn thế khi uý lạo được giới chức quân sự. Đó cũng
chính là điều mà tôi chứng kiến Johnson làm vào tháng 7-1965.
Giờ đây tôi đang đối mặt với bóng ma của một tiến trình leo thang rất hiện
hữu, rất cận kề dưới chiêu bài kêu gọi tăng quân số của Westmoreland. Tôi
rất muốn loại ra khỏi danh sách các lựa chọn của Tổng thống một lựa chọn
mà kinh nghiệm và thiên hướng trong quá khứ thường dẫn tới hành động
của Tổng thống: tuân thủ một phần hay toàn bộ lời đề nghị, dưới vỏ bọc bí
mật và dối trá. Tôi muốn ông ta thức tỉnh trước một thực tế mới, ông ta cần
nhận thức rằng ông ta đã đánh mất khả năng giữ bí mật từ công luận Mỹ.
Tôi vẫn chưa biết ai là người tiết lộ con số 206.000. Có thể ai đó đã nhỡ
miệng. Có thể đó là từ một chính khách có quan điểm diều hâu, người ủng
hộ yêu cầu tăng cường lực lượng, hay từ một ai đó chống lại việc này. Dù
trong trường hợp nào đi nữa, người anh hùng này, nhà ái quốc này hay có
thể chỉ là một người bất cẩn cũng đã giúp tôi "khai sáng". Trước đây, tôi đã
chấp nhận đạo đức nghề nghiệp theo cảm quan, nghĩ rằng tiết lộ thông tin
luôn luôn là điều xấu, là sự phản bội, hay nhẹ nhất cũng là một điều không
mấy lành mạnh. Tôi đã sai. Rõ ràng việc tiết lộ thông tin cũng có thể là một
cử chỉ ái quốc, một hành vi mang tính xây dựng.
Tuy nhiên, mục đích tôi nghĩ vào lúc đó không chỉ là thông báo cho Quốc
hội biết điều đã xảy ra. Suy nghĩ của tôi là bóc trần và đảo ngược quy trình
nói dối của Tổng thống về chính sách chiến tranh. Mục tiêu cuối cùng của
việc rò rỉ thông tin, theo như tôi hình dung, không phải là Quốc hội, mà là
chính bản thân Tổng thống hoặc đội ngũ cố vấn, những người có thể đưa ra
một kết luận hợp lý và trình lên để Tổng thống biết. Thông tin thích hợp
dành cho Tổng thống nhất định là phải có một ai đó cao cấp trong chính
quyền có khả năng tiếp cận tới thông tin mật sẵn sàng cho Quốc hội biết về
những vấn đề hệ trọng. Đó có thể là một người trong Bộ Quốc phòng hay