miền Bắc Việt Nam, và ném bom trở lại; việc phong toả cảng Hải Phòng;
và xuyên suốt là việc cố tình lừa bịp dư luận. Theo tôi, phía trước đang là
một cuộc chiến không ngày tháng và ngày càng lan rộng.
Khi tôi thuật lại tất cả những điều này, ông ta nheo mắt, cau mày, bĩu môi
nhìn tôi, theo cái cách mà tôi hiểu là muốn nói tôi đang sai hướng rồi.
Nhưng ông ta chẳng nói lại gì cả. Gõ gõ tay trên bàn, đột nhiên ông nói:
"Này, tôi không muốn thảo luận về chính sách của chúng tôi. Nói cái khác
đi".
Tôi hỏi ông có biết đến Bản nghiên cứu McNamara về Việt Nam không,
ông ta đáp có. (Lúc đó tôi không biết rằng ông ta đã từng là một cố vấn cho
nghiên cứu này trong một tháng đầu) "Ông có bản sao của nó ở Nhà Trắng
không?". Ông ta nói ông có một bản.
Tôi thấy phấn khởi khi nghe thế. Tôi hỏi tiếp: "Ông đã đọc chưa?"
"Chưa, có cần không?"
Tôi nói ông rất nên đọc, ít nhất là phần tóm tắt, thường là vài trang nằm ở
đầu mỗi tập. Ông có thể nói một trợ lý đọc toàn bộ rồi nhặt ra giúp ông ta
những đoạn có vẻ trúng tâm điểm của vấn đề. Nhưng chỉ tóm tắt thôi cũng
đã lên đến khoảng sáu mươi trang. "Họ viết được đấy. Thực sự là anh nên
cố gắng đọc nó".
"Nhưng nghiên cứu này thực sự có cái gì để chúng ta học hỏi không?"
Tim tôi như ngừng đập. Chúa ơi? Đầu óc ông ta cũng chỉ dạng như những
người khác mà thôi. Họ đều chỉ nghĩ rằng lịch sử bắt đầu cùng chính quyền
của mình và chẳng có gì phải học từ những chính quyền khác cả. Nhưng