nghiên cứu hoặc thậm chí là một số phần của nó.
Neil lại ngồi xuống để đọc thêm, ghi chép thêm, và tự chuẩn bị tốt hơn để
thuyết phục họ về công trình đó. Tôi đã không hề nghi ngờ gì về thái độ
của anh. Anh không bao giờ phàn nàn về độ dài hay những phần khô khan
của tài liệu. Chúng tôi cùng bị ám ảnh về cuộc chiến. Và đối với một người
như thế, đặc biệt đối với một nhà báo, thì tài liệu này là vô cùng hấp dẫn.
Vào lúc Neil một lần nữa rời Cambridge, anh đã cam kết mạnh mẽ hơn mọi
lần trước về việc làm sếp mình tin rằng câu chuyện này xứng đáng một vị
trí độc nhất vô nhị. Tuy nhiên trong những lần gọi điện cho tôi từ New
York vài tuần sau đó, những gì anh nói với tôi lại không được phấn khởi
cho lắm. Họ đang gặp trục trặc trong việc quyết định và không thể nhanh
chóng đạt được một giải pháp. Neil vẫn hy vọng, và thực ra là trông đợi
rằng cuối cùng họ sẽ tiến đến việc xuất bản tài liệu này, nhưng không rõ là
sẽ mất bao lâu để họ có thể thực sự thấy nghiêm túc với vấn đề này. Neil
cũng nói với tôi rằng bản thân anh được giao nhiệm vụ làm những vấn đề
khác. (Tất cả những điều này hoá ra là sai).
Vào tháng tư, anh gọi cho tôi nói rằng ban biên tập vẫn đang lần lữa chưa
đi tới quyết định và rằng dù đang theo đuổi một kế hoạch khác, anh muốn
tiếp tục làm việc về nghiên cứu này để chuẩn bị cho quyết định cuối cùng
về việc sử dụng nó.
Anh sẽ phải làm việc buổi đêm, thậm chí là cả vào các ngày cuối tuần với
nó, và chỉ có thể làm thế nếu có một bản chụp ở New York. Liệu tôi đã sẵn
sàng đưa cho anh ta một bản? Vào lúc này việc chiến tranh tiếp tục leo
thang đã khiến tôi càng thấy phải gấp rút công bố tài liệu này. Tôi đã trở
nên ngày càng hoài nghi việc có thể nhờ cậy gì đó ở Quốc hội. Sau những
trì hoãn như vậy, tôi cũng không trông mong vào tờ Thời báo, nhưng tôi