dự án của Mỹ là 1.000. Con số đó vẫn ít hơn từ 1.600 tới 6.000 quả mà lực
lượng không quân đã yêu cầu trước đây nhưng cũng chỉ giảm xuống tới
mức mà Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã quyết định từ trước, trước
khi có bản tính toán mới.
Không phải chỉ là việc số tên lửa tăng lên cao, rốt cuộc với cả hai bên, mà
tình trạng báo động của nước chúng ta vẫn tiếp tục ở mức nguy hiểm. Khi
làm việc, tôi đã phát hiện ra nhiều điều bất ngờ trong quá trình chỉ huy điều
hành của Mỹ và những chuẩn bị nhạy cảm cho cuộc chiến tranh hạt nhân,
điều đó đã nâng cấp cho một nguy cơ thực sự của một cuộc chiến tranh hạt
nhân tổng lực được bắt đầu một cách vô tình và gióng lên bằng một hồi
chuông báo động giả. Nguy cơ của chiến tranh hạt nhân, có thể do Mỹ khởi
xướng, vẫn trở nên rất thực tế với tôi, có thể bắt nguồn từ một tai nạn vô
tình, không được phép, từ tác động của những lời cảnh báo hoặc những
nghi binh trong một cuộc khủng hoảng, từ một báo động giả hoặc từ những
mệnh lệnh bị hiểu sai.
Sự hiểu biết của tôi về những sự việc này và làm thế nào mà sự hiện diện
của tên lửa Liên Xô ở Cuba có thể gây tác động lên những sự việc này đã
làm cho người đồng nghiệp cũ của tôi ở Rand là Harry Rowen, hiện giờ là
phó trợ lý Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã gọi tôi về Washington để tham
gia vào các nhóm hoạt động của Uỷ ban điều tra của Hội đồng An ninh
quốc gia trong suốt thời gian khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Kinh
nghiệm này để lại trong tôi một cảm nhận sâu sắc về việc làm thế nào một
cuộc chiến tranh nhiệt hạch cuối cùng lại có thể biến thành một cuộc khủng
hoảng, không chỉ là do những thất bại trong việc điều hành ở cấp cao mà
tôi đã bắt đầu thấy trước - được thể hiện ở cả hai phía trong cuộc đối đầu
này - mà còn do kết quả của những tính toán sai lầm chủ yếu ở những cấp
cao nhất và là kết quả của những cam kết được đưa ra trước đó nhưng
không hề có một cảm nhận nào về việc các cam kết này sẽ dẫn tới đâu. Các
bên đều hiểu rất sai về nhau, đánh giá sai thái độ của nhau, không hiểu