thấy mình còn ít kinh nghiệm. Tôi chưa bao giờ có tham vọng hay sở thích
trở thành một quan chức chính phủ để phải có trách nhiệm với một loạt các
vấn đề khác nhau mà cá nhân tôi biết rất ít về nó hoặc không chuyên
nghiệp. Chính sách về Việt Nam là một ví dụ rõ ràng. Thực tế, sau chuyện
thăm ngắn ngày của tôi tới Việt Nam, tôi thấy nó giống như một cái bẫy.
Tôi không muốn biết thêm gì về Việt Nam ngoài những điều đã biết.
Tôi đã thảo luận với McNaughton về việc tôi nghiên cứu cuộc khủng hoảng
từ trước đó và nói với McNaughton rằng tôi thấy công việc này rất thú vị
và hoàn toàn đáng để làm. Tôi đã dành khá nhiều thời gian cho nó và nỗ lực
đó đã mang lại kết quả. Tôi nghĩ tôi có thể đóng góp tốt nhất bằng cách tiếp
tục công việc nghiên cứu này. Nhưng McNaughton nói, ông ta sẽ cho tôi cơ
hội được quan sát cuộc khủng hoảng từ bên trong, khi nó đang diễn ra.
"Việt Nam là một cuộc khủng hoảng tiếp theo cuộc khủng hoảng khác; đó
là một cuộc khủng hoảng dài".
Những câu chuyện về các cuộc khủng hoảng trong quá khứ cho tôi thấy chỉ
được mỗi cái là quá nhiều chứ không có điều gì thực sự cần biết. Nếu tôi
muốn biết các cuộc khủng hoảng bắt nguồn như thế nào, gây ra những sai
lầm gì và thực sự đã làm khủng hoảng về cái gì, thì tôi phải tìm cách thích
nghi với các hoạt đơng của chính phủ, như một người trong cuộc, chứ
không phải như một nhà nghiên cứu hay một cố vấn. McNaughton nói tôi
có thể tiếp tục nghiên cứu về cuộc khủng hoảng khi thời gian cho phép.
Nhưng quả thực, khi thấy cơ hội ông ta dành cho tôi, thì Việt Nam sẽ là
một đề tài được bổ sung vào danh sách các công việc của tôi. Tôi sẽ không
viết sử về Việt Nam. Tôi sẽ sống với lịch sử của nó. Cuối cùng tôi đã chấp
nhận.
Tôi biết giá trị của chức vụ, bên trong toà nhà này và trong các ban ngành
khác. Tôi yêu cầu một chức vụ dân sự "siêu cấp", GS- 18, có chức vụ mức
lương tương đương với Phó trợ lý Bộ trưởng về phía dân sự, về phía quân