Một buổi trưa thứ hai, ngày 3 tháng tám năm 1964, tôi bước vào dãy văn
phòng của trợ lý Bộ trưởng sẵn sàng bắt tay vào công việc mới. Phòng làm
việc của McNaughton rất rộng, có trần cao với các cửa sổ nhìn ra phía Đài
tưởng niệm Jefferson và phía bên kia của TidalBasin, Đài tưởng niệm
Washington.
Phòng của tôi cũng có một cửa sổ duy nhất quay ra phía đó, căn phòng nhỏ
chỉ đủ để kê một cái bàn, một cái ghế dành cho khách, một tủ sách nhỏ và 2
két sắt có 4 ngăn kín đáo để đựng tài liệu mật. Căn phòng thuận tiện ở chỗ
chỉ cách phòng của McNaughton vài mét tính từ cửa ra vào. Một thư ký
ngồi tại cái bàn ở giữa chúng tôi, ngay bên ngoài cửa ra vào của ông ta. Hai
người khác hoặc nhiều hơn thì ngồi ở khoảng trống phía bên kia cửa ra vào
của ông ta, trong căn phòng mà người ta có thể đi vào từ hành lang của Lầu
Năm Góc. Sĩ quan phụ tá quân sự của McNaughton, người điều hành văn
phòng và trợ lý cho phụ tá, thiếu tá Harry Hams, có một phòng nhỏ bên
cạnh phòng của tôi.
Chúng tôi ở vòng xoay E, gần lối vào từ phía sông, trên tầng ba, một khu
vực biệt lập của Lầu Năm Góc vì nó thông xuống ngay hội trường lớn từ
dãy phòng của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara.
Một lần tôi vào phòng làm việc nhỏ của mình và nói với phụ tá quân sự
rằng tôi muốn xem mọi tài liệu về Việt Nam hoặc từ Việt Nam tới. Anh ta
hỏi tôi: "Mọi thứ sao?"
Tôi trả lời: "Tất cả".
Sáng hôm sau khi tôi đến, giữa bàn làm việc và cửa sổ là hai chồng tài liệu
bằng nhau xếp ngay ngắn, mỗi chồng đều cao hơn tôi một chút. Tôi cao