thương cho những kẻ cô đơn, Chúa cho tôi biết người bạn hiền trong quãng
đời còn lại của tôi bây giờ ở đâu. Lạy Chúa, thân tôi sao mà cô đơn thế
này!”
Lão Vojtíšek nhìn về phía trước, vẫn lặng yên.
Câu nói của mụ như có một nụ cười, một niềm vui dội vào lòng kẻ
hành khất, nhưng bên cạnh đó có cái gì xấu xa, khó cảm. Mồm mụ bĩu ra dài
thượt, mỗi khi nói, da mặt của mụ co rúm lại, dồn vào đôi môi trông tựa như
một cái núm quả.
“Ông Vojtíšek! Ông Vojtíšek, hai ta còn có thể chung vui được kia mà.
Tôi cứ ngày đêm mơ tưởng đến ông, và tôi nghĩ, Chúa cũng muốn như thế.
Mà sao ông cứ ở một mình mãi, đi sớm về khuya, không ai trông nom đỡ
đần. Chỗ nào ông cũng có bè bạn quen biết, đi đến đâu ông cũng gặp toàn
người tốt. Chao, giá mà ông thương đến tôi... tôi còn một mảnh chăn
bông…”
Trong khi đó lão Vojtíšek từ từ đứng dậy. Lão nắn lại cái vành da trên
cái mũ lưỡi trai rồi đáp:
“Bước đi cho rồi!” Nói xong lão quay đi, không thèm chào mụ.
Lão lại thong thả trở về phố Ostruhová. Cặp mắt xanh lè của mụ long
lên như hai ngọn đèn pha đuổi theo lão, cho mãi tới khi lão rẽ ngang mới
thôi.
Mụ Triệu kéo lại chiếc khăn trùm kín mặt rồi ngồi đó một hồi lâu,
không động đậy. Có lẽ mụ đã thiếp đi.
Bỗng nhiên bao câu chuyện vô căn cứ bắt đầu truyền đi khắp khu phố
Malá Strana. Và người nào nghe đến tai, cũng đều thốt ra một câu mai mỉa:
“À, ra cái lão Vojtíšek ghê thật!” Câu chuyện về lão cứ truyền đi hết người
này qua người nọ, và chốc chốc lại nghe người ta nhắc: “Lão Vojtíšek ghê
thật!”.