Lần này Floriani trả lời. Anh nói bình tĩnh, tính cách một
người
không dễ
lung lay vì một lời phản bác vô
nghĩa như vậy:
-
Tôi cũng nghĩ cửa sổ đóng nhưng phải chăng có một cửa nhỏ trổ phía
trên
?
-
Sao ông biết
?
- Trước hết đó là qui luật xây dựng các lâu đài thời cổ; sau nữa, phải có
vì nếu
không thì vụ trộm
không thể
giải thích nổi.
-
Quả thật có một lỗ trổ trên đấy nhưng
cũng
đóng kín như cửa sổ nên
người ta không để
ý đến nữa.
- Như vậy là sai lầm vì nếu lưu ý người ta sẽ
thấy nó được mở ra.
- Bằng cách nào
?
-
Tôi ví dụ, cũng như các cửa khác nó được mở
bằng một sợi thép có
vòng phía dưới. Chiếc vòng
đó
treo ở giữa cánh kính cửa sổ và chiếc hòm.
- Đúng, nhưng tôi không hiểu...
-
Như thế nầy: Nhờ một đường rãnh trong
ô
vuông cửa sổ, có thể
dùng
một dụng cụ như que sắt có móc bám vào chiếc vòng kéo xuống thì mở
dược cửa.
Bá tước dằn giọng:- Tuyệt
! Ông
bố trí như vậy thật dễ dàng, có điều ông
quên, ông bạn thân mến, không có đường rãnh nào
ở
ô vuông cả.
- Phải có một đưòng rãnh.
-
Nếu có người ta đã thấy.
-
Để thấy phải nhìn xem nhưng người ta không nhìn. Đường rãnh có đấy,
không thể không có, dọc theo ô vuông sát chỗ mát - tít... tất nhiên theo
đường thẳng đứng.
Bá tước nóng nảy đứng dậy. Ông sải bước mấy lần trong phòng rồi lại
gần Floriani:
- Từ ngày ấy đến nay không ai bước vào phòng đó... Trong phòng không
có gì thay đổi...
- Như vậy, thưa bá tước, ông đi xem lại thực tế
có phù hợp với ý tôi
không.
-
Không phù hợp với một chi tiết nào, pháp luật đã xác định. Ông không
thấy, không biết gì mà nói ngược lại những gì chúng tôi thấy, chúng tôi