chương trình như vậy vừa không hiệu quả vừa khó tránh khỏi việc
tạo ra những cơ hội lạm dụng và đều sớm chết yểu. Người đầu
tiên đề xuất thuế thu nhập liên bang là Bộ trưởng Tài chính,
Alexander J. Dallas, dưới thời Tổng thống Madison. Ông đề xuất
loại thuế này vào năm 1814 nhưng mấy tháng sau đó, chiến tranh
năm 1812 kết thúc, nhu cầu đối với doanh thu công giảm đi và
người ta phản đối quyết liệt đề xuất của ông đến nỗi chủ đề này
không được nêu lại cho đến thời điểm xảy ra Nội chiến, khi cả
Liên bang miền Bắc lẫn Liên minh miền Nam đều ban bố các dự
thảo về thuế thu nhập. Trước năm 1900, rất ít loại thuế thu
nhập được ban hành mới mà không kích động chiến tranh. Các loại
thuế thu nhập quốc gia đã từng – và cho đến khá gần đây vẫn như
vậy – là những biện pháp chiến tranh và quốc phòng. Tháng 6 năm
1862, kích động trước quan ngại của nhân dân về khoản nợ công
đang ngày càng phình to lên với tốc độ 2 triệu đô-la/ngày, Quốc
hội Mỹ miễn cưỡng thông qua luật quy định áp thuế thu nhập lũy
tiến, tối đa là 10% và vào ngày 1 tháng 7, Tổng thống Lincoln
ký ban hành luật này cùng với một dự luật trừng phạt tội đa
thê. (Ngày hôm sau, cổ phiếu trên Sàn giao New York rớt xuống
đáy, đương nhiên không phải do dự luật về đa thê.)</p>
<p class="calibre2">“Tôi được đánh thuế thu nhập! Tuyệt làm
sao! Suốt đời này tôi chưa bao giờ cảm thấy mình quan trọng đến
thế!” Mark Twain viết trên tờ Territorial Enterprise xuất bản
tại Virginia City, bang Nevada, sau khi ông thanh toán hóa đơn
thuế thu nhập cá nhân đầu tiên cho năm 1846 trị giá 36,82 đô-
la, bao gồm khoản tiền phạt 3,12 đô-la vì nộp chậm. Mặc dù
chẳng mấy người nộp thuế tỏ ra hồ hởi như nhà văn nhưng luật
thuế này vẫn giữ nguyên hiệu lực cho đến năm 1872. Tuy nhiên,
nó cũng trải qua chu kỳ biến thiên lên - xuống và sửa đổi nhiều
lần, trong đó vào năm 1865, luật này xóa sổ các mức lũy tiến
dựa trên một lập luận rất thú vị rằng việc áp thuế 10% đối với
thu nhập cao và dưới 10% với thu nhập thấp chính là nguyên nhân
gây phân biệt đối xử vô lý trong phân phối của cải. Doanh thu
từ thuế hàng năm nhảy vọt từ 2 triệu đô-la năm 1863 lên 73
triệu đô-la vào năm 1866, sau đó giảm mạnh. Trong hai thập kỷ,
bắt đầu từ thập niên 1870, thuế thu nhập là điều không lọt vào
đầu người Mỹ. Vào năm 1893, khi sự thể đã rõ là nước Mỹ đang
dựa vào một hệ thống thuế lạc hậu, đánh thuế quá nhẹ cho doanh
nhân và giới chuyên gia, Tổng thống Cleveland đã đề xuất thuế
thu nhập. Đề xuất này liền sau đó vấp phải sự la ó đến chói
tai. Thượng nghị sĩ John Sherman bang Ohio, cha đẻ của Đạo luật
chống độc quyền Sherman, gọi đề xuất đó là “học thuyết ác
hiểm”, một thượng nghị sĩ khác thì cay nghiệt: “Giáo sư với mớ
sách vở... [và] kẻ vô chính phủ với những quả bom của họ”,
trong khi đó ở Nhà Trắng, một nghị sĩ bang Pennsylvania thì
chẳng cần úp mở:</p>