<blockquote class="calibre7"><p class="no-indent">Thuế thu
nhập! Một loại thuế quá tởm đến mức không chính quyền nào dám
đặt ra, trừ phi có chiến tranh... Thật kinh tởm không lời tả
xiết về khía cạnh đạo đức và vật chất. Nó không thuộc về một
đất nước tự do. Nó là luật của giai cấp... Có phải các vị đang
muốn trọng thưởng cho sự dối trá và khuyến khích khai man? Việc
áp thuế đó sẽ làm băng hoại con người. Nó sẽ mang theo hệ quả
là những kẻ gián điệp và kẻ chỉ điểm. Nó sẽ đẻ ra một bầy quan
chức với quyền lực thẩm tra. Thưa ngài Thủ tướng, thông qua dự
luật đó đi và Đảng Dân chủ đang ký vào bản án tử hình của chính
mình đấy.</p></blockquote>
<p class="calibre2">Đề xuất châm ngòi làn sóng phẫn nộ này là
về một loại thuế thống nhất ở mức 2% đối với thu nhập trên
4.000 đô-la, được ban hành vào năm 1894. Đảng Dân chủ sống sót,
còn luật mới đó thì không. Trước khi có thể đi vào hiệu lực,
luật này bị Tòa án tối cao bác bỏ, dựa trên lập luận rằng nó vi
phạm điều khoản của Hiến pháp quy định cấm các loại thuế “trực
tiếp” trừ phi được phân bổ theo bang dựa trên quy mô dân số
(thật lạ khi điểm này chưa từng bị vạch ra đối với thuế thu
nhập thời Nội chiến) và vấn đề thuế thu nhập lại chết thêm một
lần nữa, lần này kéo dài một thập kỷ rưỡi. Năm 1990, theo cái
mà quan chức thuế Jerome Hellerstein gọi là “một trong những
bước ngoặt mỉa mai nhất trong các sự kiện chính trị trong lịch
sử Mỹ”, Tu chính án số 16 cuối cùng đã trao cho Quốc hội quyền
áp thuế không cần phân bổ theo bang được đề xuất bởi Đảng viên
Cộng hòa. Những kẻ thù kiên trung của thuế thu nhập vốn xem
bước đi này như là một động thái chính trị; họ tự tin rằng Tu
chính án này sẽ không bao giờ được các bang thông qua. Rủi thay
cho họ, năm 1913, Tu chính án này được thông qua và cuối năm
đó, Quốc hội ban hành thuế lũy tiến áp dụng với cá nhân trong
hạng mức từ 1% đến 7% và một thuế đồng loạt 1% áp cho các lợi
nhuận ròng của các tổng công ty. Thuế thu nhập hiện diện trong
cuộc sống Mỹ kể từ đó đến nay.</p>
<p class="calibre2">Nhìn chung, từ năm 1913, lịch sử của thuế
này là lịch sử của tăng thuế và sự xuất hiện rất đúng lúc những
điều khoản đặc biệt để cứu cho nhóm bị đánh thuế cao khỏi việc
phải trả những mức thuế này. Đợt tăng mạnh đầu tiên diễn ra
trong thời kỳ Thế chiến I, đến năm 1918, mức đáy là 6%, còn mức
kịch trần áp dụng cho thu nhập chịu thuế trên 1 triệu đô-la là
77%, tức là cao hơn nhiều so với bất kỳ mốc nào chính phủ trước
đó từng mạo hiểm đánh vào một khung thu nhập. Nhưng chiến tranh
chấm dứt, “đời sống trở lại bình thường” đã đưa đến một xu thế
hoàn toàn trái ngược, đi cùng với nó là một kỷ nguyên áp thuế
thấp như nhau cho cả người giàu lẫn người nghèo. Các mức thuế
được giảm theo từng cấp độ cho đến năm 1925, khi thang thuế
tiêu chuẩn dao động từ mức thấp nhất 1,5% đến mức cao nhất là