thu nhập cao – trong khi thuế thu nhập đánh vào các tổng công
ty, nhích dần từ mức sơ khởi 1% của năm 1913, đã lên đến điểm
trong đó nhiều công ty sẽ phải chịu mức thuế 80%. Tuy nhiên,
điều mang tính cách mạng về hệ thống thuế thời chiến không nằm
ở việc đánh những mức thuế cao đối với các nhóm thu nhập cao;
thực tế, năm 1942, khi làn sóng này dẫn lên đến đỉnh, một
phương thức trốn thuế mới dành cho nhóm chịu thuế cao xuất
hiện: thời hạn mà cổ phiếu hay các tài sản khác phải được giữ
lại để được hưởng lợi từ điều khoản về thuế thu nhập lãi vốn bị
giảm từ 18 tháng xuống còn 6 tháng. Sự cách mạng nằm ở chỗ tăng
tiền lương các ngành công nghiệp và mở rộng các mức thuế suất
đáng kể đối với người hưởng lương, làm cho người đó lần đầu
tiên trở thành người đóng góp quan trọng cho doanh thu của nhà
nước. Đột nhiên, thuế thu nhập trở thành thuế hàng loạt.</p>
<p class="calibre2">Và thuế này được duy trì lưu hành kể từ đó.
Mặc dù thuế thu nhập áp cho doanh nghiệp lớn và vừa đã ổn định
ở mức đồng loạt là 52%, nhưng mức giảm đối với cá nhân không
thay đổi gì nhiều từ năm 1945 đến năm 1964. (Nghĩa là, tỷ lệ cơ
bản không thay đổi nhiều; có 5 đến 17 đợt hoàn thuế trong thời
kỳ từ 1946 đến 1950) và phạm vi dao động là từ 20%-91% tính đến
năm 1950. Thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên, người ta chứng kiến
tỷ lệ này tăng nhẹ, nhưng sau đó về lại mức cũ vào năm 1954.
Năm 1950, một con đường trốn thuế quan trọng khác dưới danh
nghĩa “quyền mua cổ phiếu hạn chế” mở ra, tạo điều kiện cho một
số giám đốc điều hành doanh nghiệp chỉ bị đánh thuế cho phần
tiền vượt ngưỡng của họ ở mức thuế lãi vốn thấp. Sự thay đổi
đáng kể, không nhìn thấy được qua bảng mục tính thuế, là sự
tiếp nối của cách tính cũ triển khai từ thời kỳ chiến tranh. Ví
dụ, sự tăng gánh nặng thuế tương ứng mà nhóm thu nhập trung
bình và thấp phải cáng đáng. Nghịch lý có vẻ nằm ở chỗ, cuộc
cách mạng trong thuế thu nhập của chúng ta đi từ chỗ áp dụng
mức thuế thấp (phụ thuộc vào doanh thu) đối với nhóm thu nhập
cao chuyển thành áp mức thuế cao đối với các nhóm thu nhập
trung bình và dưới trung bình. Thuế trong thời gian Nội chiến,
chỉ áp dụng cho 1% dân số, rõ ràng là thuế nhà giàu và thuế năm
1913 cũng được liệt vào dạng tương tự. Ngay cả năm 1918, đỉnh
điểm của việc thắt lưng buộc bụng ngân sách do hệ quả của Thế
chiến I, chỉ có chưa đầy 4,5 triệu người Mỹ trên tổng dân số
100 triệu phải điền và nộp tờ khai thuế. Năm 1933, khi đang ở
cao trào khủng hoảng, chỉ có 3,75 triệu tờ khai thuế được điền
và năm 1939, chỉ giới tinh tú bao gồm 700.000 người nộp thuế
trên tổng dân số 130 triệu người (chiếm chín phần mười toàn bộ
doanh thu thuế thu nhập), trong khi vào năm 1960 có khoảng 32
triệu người nộp thuế (khoảng hơn một phần sáu tổng dân số) đóng
góp khoảng chín phần mười tổng thu, và với con số to đùng như
vậy mà chỉ thu về khoảng 35,5 triệu đô-la, so với gần 1 tỷ đô-
la vào năm 1939.</p>