<p class="calibre2">Nhà sử học Seligman viết vào năm 1911 rằng,
lịch sử của việc đánh thuế thu nhập trên thế giới nhất thiết
bao gồm “tiến trình hướng tới việc tính thuế dựa trên khả năng
nộp thuế”. Có người tự hỏi, nếu vẫn còn sống, không biết ông ta
sẽ còn bổ sung tiêu chí gì nữa không, trên cơ sở trải nghiệm
tại Mỹ kể từ thời đó. Dĩ nhiên, lý do mà những người có thu
nhập trung bình phải trả thuế nhiều hơn trước kia là vì có thêm
rất nhiều người có thu nhập như vậy. Những thay đổi trong cấu
trúc kinh tế-xã hội của Mỹ – cũng giống như cơ cấu của thuế thu
nhập – là nguyên nhân chính đối với việc chuyển dịch. Nhưng
trên thực tế, có thể là thuế thu nhập bản địa của năm 1913 tính
các mức thuế cá nhân dựa trên khả năng chi trả của từng người
nghiêm ngặt hơn so với thuế thu nhập ngày nay.</p>
<p class="calibre2">Cho dù luật thuế thu nhập của Hoa Kỳ có
khiếm khuyết gì đi chăng nữa, thì có một sự thật không phải bàn
cãi là thuế của Hoa Kỳ được tuân thủ tốt nhất thế giới; các
thuế thu nhập hiện nay áp dụng khắp mọi nơi, từ phương Đông tới
phương Tây, từ Bắc cực đến Nam cực. (Trên thực tế, toàn bộ mấy
chục quốc gia mới thành lập trong những năm gần đây đều ban
hành các biện pháp về thuế thu nhập. Walter H. Diamond, biên
tập viên của ấn phẩm Foreign Tax & Trade Briefs (Tóm lược
thương mại và thuế ngoại quốc) đã lưu ý rằng khoảng năm 1955,
ông có thể đọc vanh vách tên của 20 nước cả lớn cả bé không
đánh thuế cá nhân; nhưng đến năm 1965, những cái tên ông có thể
đọc được chỉ còn là vài nước thuộc địa của Anh như Bermuda và
Bahamas, một số nước cộng hòa nhỏ như San Marino và Andorra, ba
nước Trung Đông có trữ lượng dầu mỏ lớn: Vương quốc Muscat,
Vương quốc Oman, Kuwait và Qatar; hai nước khá hiếu khách:
Monaco và Ả Rập Saudi, chỉ đánh thuế thu nhập của người ngoại
quốc đang lưu trú chứ không đánh vào công dân nước mình. Thậm
chí các nước cộng sản cũng áp dụng thuế thu nhập, dù phần thu
từ thuế này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ nguồn thu.
Nga áp dụng các mức thuế khác nhau tùy theo ngành nghề: chủ cửa
hàng và giáo sĩ xếp vào nhóm cao nhất, nghệ sĩ và nhà văn xếp
vào nhóm gần mức trung bình, người lao động và thợ thủ công
thuộc nhóm đáy). Có vô vàn bằng chứng về tính hiệu quả siêu
việt của hệ thống thu thuế ở Mỹ, ví dụ như chi phí quản lý hành
chính và thực thi chỉ chiếm khoảng 44 xu trong mỗi 100 đô-la
thu được, so với con số gấp đôi ở Canada, gấp ba ở Anh, Pháp và
Bỉ, và gấp nhiều lần ở những nơi khác. Đến cuối nhiệm kỳ của
mình, Mortimer M. Caplin, Giám đốc Sở thuế vụ Hoa Kỳ từ tháng 1
năm 1961 đến tháng 7 năm 1964, tổ chức tham vấn với các nhà
quản trị thuế hàng đầu của sáu nước Tây Âu và câu hỏi được hỏi
đi hỏi lại là: “Làm cách nào các ông làm được như thế? Có phải
ở nước ông người dân <em class="calibre5">thích</em> nộp thuế
chăng?”</p>