1. Cảnh quan miền núi phía Bắc
Sự qui định địa chính trị tộc người
Nước Việt Nam hiện đại, núi và cao nguyên chiếm 2/3 diện tích quốc gia nhưng chỉ có
1/4 dân số sinh sống, phần lớn là các tộc thiểu số; còn 1/3 diện tích quốc gia còn lại, các
đồng bằng lại chiếm tới 3/4 dân số, chứa phân lớn là người Việt/Kinh - những người ở các
kinh thành. Việt Nam thường được hình dung như những tiểu khối dân cư sống bám theo
các thung lũng hoa màu chạy theo hai hướng phân bố chính: 1/ trục Bắc - Nam: trục Việt
tộc với những thung lũng lớn, thấp, đồng bằng bám dọc biển; và 2/ trục Đông - Tây: trục
các tộc thiểu số, với những thung lũng nhỏ, hẹp, càng nhỏ hẹp dần khi lên cao. Đặc điểm
chung của cả hai trục Nam Bắc và Đông Tây ở Việt Nam là đều bị chia cắt mạnh bởi núi,
và các dòng sông. Trục Bắc Nam, sự quần cư bị chia cắt bởi những dãy núi xắn ngang qua
các đồng bằng, ăn ra chạm biển. Trục Đông Tây, bị chia cắt, vây khổn thành các dạng địa
hình vùng lòng chảo, hay cán môi kiểu thung lũng lốm đốm da báo. Tóm lại, lọt vào giữa
các thung lũng, Việt Nam hình thành các tiểu vùng văn hóa. Chủ nghĩa địa phương ra đời
như một di sản của bản địa, và vì vậy, có sức sống đặc biệt trên thân thể văn hóa Việt Nam.
Nước Việt Nam phát hiện ra mình khi tìm về phương Nam ở thế kỷ XVI, và thời hiện
đại, tìm lại chính mình ở miền núi, phần bị lãng quên mang tính bản địa đa tộc người của
quốc gia. Việt Nam hiện đại đang bứt khỏi thế giới Hán hóa cựu truyền, từ bỏ bộ chữ
vuông, tìm thấy và tái tạo ra một Việt Nam khác, nhiều sắc màu hơn đon ấn tượng Nho
giáo. Việt Nam ngày nay là tấm khảm dệt đa văn hóa tộc người vốn khá xa lạ với hệ yếu tố
Hán mà thân thuộc hơn với khối Đông Nam Á (Papin 1999).
Một cái nhìn đậm màu sắc địa chính trị, sẽ dễ dàng nhận thấy, địa lý Việt Nam mang
đặc điểm đứt gãy lớn giữa địa hình đồng bằng và miền núi (Gourou 2003; Lê Bá Thảo
2009). Như thế, đứt gãy địa lý tựa một nhát chém ngọt phân đôi đồng và núi. Sự đứt gãy
giữa địa hình đồng bằng và miền núi ấy đã để lại những tác động trực tiếp lên sự kiện quan
trọng nhất của địa lý là con người. Nguôi Việt, những kẻ chiến thắng ở đồng bằng đầy
quyền lực đã "kể" về, đã "sáng tạo" ra một lịch sử Việt Nam mờ nhạt yếu tố núi non, dù núi
non bao phủ phân lớn diện tích quốc gia. Một lịch sử mang đậm màu sắc Việt tâm luận, vì
thê) là lịch sử của đồng bằng. Lịch sử ấy là đon tộc người vì hầu như chỉ gắn bó với các
biến cố của người Việt, những kẻ tổ chức câu chuyện sử chạy dọc theo trục Bắc - Nam.
Còn lịch sử Việt Nam như một chỉnh thể núi và đồng, thì còn cần phải ngước nhìn lên miền
núi. Cần phải tổ chức kể lại lịch sử Việt Nam như là lịch sử đa tộc người (trong đó người
Việt đa số là dân tộc sáng lập quốc gia). Miền núi tổ chức câu chuyện lịch sử theo trục
Đông - Tây. Lịch sử, vì thế, cần phải được viết tiếp để có những "diễn ngôn lịch sử" đi gần