số, nạn nhân của sự "khai sáng cưỡng ép", do đó, bị dồn đuổi dài lâu theo dòng lịch sử.
Trốn chạy và tự do ở trong rừng, xây dựng xã hội và với những tộc người đủ tiềm lực, sự tự
tín quân sự sẽ thôi thúc họ tràn lấn xuống đồng bằng. Nếu có thể, mọi tộc người đều muốn
được như họ Quách ở Âm Công, dòng quan lang người Mường đã khiến cho vua quan triều
đình Phú Xuân cay đắng nhận ra: "đời đời phản nghịch"
. Lịch sử nhìn từ núi là một
dằng co quân sự lâu dài của dưới đánh lên, trên đánh xuống. Một thỏa hiệp tự trị, ràng buộc
lỏng lẻo, hôn nhân hòa hiếu và chấp nhận triều cống phân lớn tượng trưng, đấy là những
phương án, biến pháp chính trị nhằm giải quyết tình thế núi và đồng khá phổ dụng thời
trung đại. Miền núi, hay vùng biên, vì thế quan trọng hơn rất nhiều so với cái nhìn cố hữu
của đồng bằng. Chủ đề giải Việt tâm, giải Hoa tâm nhằm xây dựng Đa tộc luận là một chủ
đề lớn của Việt Nam mà nỗ lực mới chỉ bắt đầu. Mà dù thế nào thì cũng phải thừa nhận,
luôn có một hệ quả lịch sử quan trọng của số phận nước Việt Nam, đó là, phần lớn những
thế lực cách mạng trong quá khứ nổ ra, và nhiều lúc đã thành công là khởi đi từ rừng núi.
Rừng núi che chở, nuôi dưỡng các nghĩa quân, cung cấp tiền bạc (qua các "nguồn", buôn
lậu, thuốc phiện,...), để từ đó, tạo tiềm lực và cơ hội cho quân khởi nghĩa tràn xuống đồng
bằng. Chiếm đồng bằng thành công nghĩa là đã nắm được vận mệnh nước Việt Nam. Hệ
quả này chính xác từ cổ trung đại đến hiện đại. Những người Cộng sản là minh chứng gần
nhất cho việc từ miền núi, dựa vào rừng núi "an toàn khu" tràn xuống đồng bằng kháng
chiến và đã thành công
Nhưng miền núi (phía Bắc) không phải là một cái gì đó chung chung, thống nhất.
Miền núi là hàng loạt những tiểu vùng tộc người, mà trong đấy, nổi lên bốn trung tâm
quyền lực chia sẻ theo địa chính trị và nhân khẩu: Mường - Tày - Thái - H’mông. Sự không
[thể] tràn lấn đến các địa vực của "đối phương" ở các tộc người nắm quyền lực miền núi,
được hiểu như bị/được đặt định bởi sự chia cắt của những khối núi quá lớn không thể vượt
qua, như Hoàng Liên Sơn phân chia Đông và Tây miền núi phía Bắc. Đồng thời, với một
cơ cấu dân cư hạn chế, các tộc người chủ thể núi rừng không thể tràn lấn vào nhau. Điều
này thể hiện khá rõ ở Tây Bắc khi Mường và Thái có một sự phân chia địa vực ảnh hưởng,
mà quan sát, chúng ta nhận thấy không phải cách trở địa hình mà chỉ do giới hạn về dân
số
. Tất cả, ràng buộc nhau, tạo thành những phân khu tiểu tự trị, xoay quanh hạt nhân
là nhóm tộc- người-chủ-thể-vùng, tạo thành "thế giới" miền núi ở miền Bắc nước Việt Nam
trong quá khứ, với tính chất xuyên quốc gia bởi địa vực tộc người là một liền kề trong địa
lý đa quốc gia, chia cắt không tuân theo não trạng quyền lực đồng bằng. Quyền lực miền
núi, sự thực, mang tính chất tự trị phá bỏ các ranh giới quốc gia
. Các tộc người thiểu số
trong quá khứ, luôn di chuyển và liên kết sức mạnh dễ dàng với đồng tộc ở Vân Nam và
Lào, điều còn nhận thấy khá rõ ở người H’mông
. Ngày nay, sự "phá" biên giới quốc
gia, "giải lãnh thổ hóa" và dễ dàng liên kết giữa các tộc người chuyển trọng tâm chủ yếu
vào liên kết văn hóa và kinh tế.