hơn với các bản chất. Trục Đông - Tây đã chứng kiến sự hình thành nước Việt Nam qua
giao lưu, va chạm văn hóa - chính trị dọc các con sông đổ từ núi ra biên và đồng thời là các
nẻo đường mòn vùng cao dẫn lên các xã hội miền núi. Trong đấy, quan trọng nhất là sự di
dân vì các lí do chính trị. Phần lớn các tộc người ở miền núi phía Bắc, thậm chí, cả người
Việt trong quá khứ xa xôi là những trốn chạy, tị nạn khỏi bành trướng bá quyền quân sự
Hán tộc. Và, di sản chung cho tất cả là sự lựa chọn - những lựa chọn của lịch sử: các tộc
người đều tìm thấy và ở lại nơi miền đất sống mới - phần tương ứng với mảnh đất Việt
Nam ngày nay. Tiếp sau đó là lòng hám lợi như một động cơ quan trọng để hai "thế giới",
núi và đồng, xích lại gần nhau. Hoạt động thương mại chưa bao giờ là tẻ nhạt giữa miền núi
và miền xuôi đã làm gần hơn các khối người bị địa hình chia cắt. Ở đàng Trong, sự kết nối
Việt và Thượng được tiếp tục bởi sự kế thừa quán tính thương mại Chămpa qua các
"nguồn". Ở đàng Ngoài, mờ nhạt hơn, chợ phiên và buôn chuyến đóng vai trò nối kết miền
xuôi và mạn ngược. Sau nữa, là tham vọng con người, nó tồn tại như một hằng số phổ quát
cho cả thiêu số lẫn đa số. Tham vọng bá quyền của các khối người trong nước Việt Nam là
sự dằng co dai dẳng trong lịch sử. Ý đồ bành trướng quyền lực của Thăng Long - Phú Xuân
chưa bao giờ nguôi ngoai khi ngước nhìn lên các miền cao. Miền núi, trái lại cố gắng duy
trì sự tự trị và đồng thời, sự lớn mạnh của Mường, Thái và Tày báo hiệu cho những "sách
nhiễu" của "man dân" nuôi ý đồ tràn lấn xuống đồng bằng. Sự va chạm quân sự ấy, tạo ra
một kiểu "giao lưu" bằng tranh đấu. Tổng cộng những lí do trên, đã góp vào kiến tạo liên
tục trong lịch sử diện mạo của nước Việt Nam đa tộc người ở miền núi phía Bắc, địa vục
tương ứng với diện tích nước Việt Nam trước thế kỷ XVI.
Đồng bằng với tính chất thuận lợi về kinh tế giao thông, giao thương, là vựa kho
lương thực dồi dào với các vùng trồng cấy phù sa đắp bồi màu mỡ. Đồng bằng là đất tạo
tiềm lực kinh tế - chính trị để lập quốc. Nên, tất yếu, kẻ nào nắm giữ được đồng bằng sẽ là
tộc người cầm quyền ở Việt Nam. Trong lịch sử, về cơ bản thì là người Việt, tộc có số dân
đa số áp đảo trong cơ cấu dân cư Việt Nam
. Các miền núi, với sự hiểm trở của địa lý,
tộc người với cấu trúc dân cư quá thưa thớt nên không thể lấn át người Việt, cũng như lấn
át lẫn nhau. Những người miền núi đành cố thủ trong những khoảng rừng và núi, chia nhỏ
không gian mà duy trì tự trị tộc người. Núi và rừng tạo thành thứ siêu thành quách, thách
thức ý chí mọi quân đội trong quá khứ, nên luôn là nơi trú ngụ lý tưởng cho các tộc người
thiểu số bị đe dọa. Miền rừng núi che chở, cưu mang cho các xã hội vùng cao. Hơn thế, còn
cho họ quyền tự trị mà kiến tạo văn hóa, điều mà mọi tộc người đều mơ ước. Trong tư duy
nhân học lịch sử, kẻ khác - những người thiểu số, ở thời văn hóa bộ lạc, từ kinh nghiệm
sinh học, được hiểu như cái xa lạ và cái thù địch, nên cần tiêu diệt. Đến thời văn hóa nhà
nước, cả Tây sang Đông, đều tự cho mình sứ mệnh văn minh, một thứ "hoa tâm" trong não
trạng thôi thúc bước chân viễn chinh mang "sứ mệnh" đi khai sáng những cái khác mình
"thấp kém", "man dã" điển hình kiểu tinh thần thực dân chủ nghĩa. Những tộc người thiểu