Điểm giống nhau trong chính trị tộc người là các thủ lĩnh chính trị quân sự của họ bao
giờ cũng khoác lên một lớp áo linh thiêng. Các thủ lĩnh thiểu số là một kiểu "bán nhân
thân" - phái sinh từ hình thức của thủ lĩnh pháp sư thời nguyên thủy. Nhưng khác biệt của
thủ lĩnh H’mông (vua Mèo, thống lý, thống quán) ở Việt Nam so với các thủ lĩnh Tày (thổ
ty, quằng), Thái (tạo, phía) và Mường (lang, đạo) là thủ lĩnh H’mông duy trì chính trị linh
thiêng không trên cơ sở của dòng dõi thần thánh (ít nhất ở Việt Nam) mà nhiều hơn là dựa
trên niềm hào quang chói lọi của người anh hùng cứu thế luôn được chờ đợi trong tâm thức
H’mông. Các thủ lĩnh H’mông tồn tại trong tâm thức tập thể tộc người như người anh hùng
cứu thế được chờ đợi trong huyền thoại
. Cộng đồng H’mông chỉ cần như thế, sự xuất
hiện của một thành viên nào đó tự xưng "cứu thế", "thiên sứ" là vô thức tập thể đám đông
đã tìm thấy nơi định hướng kí thác hành động tộc người. H’mông khi ấy, sẵn sàng lìa bỏ tất
cả, để hiến thân toàn vẹn theo chân người anh hùng cứu thế "tham chiến" trên mọi mặt trận
nhằm thiết lập một "vương quốc H’mông" đậm màu sắc tưởng tượng. Cứu thế luận
H’mông chưa bao giờ mờ nhạt trong tâm thức tộc người. Sức mạnh chính trị H’mông liên
quan mật thiết với thuyết cứu thế tộc người. Và người H’mông trong lịch sử, bằng một sự
máu lửa và dũng cảm đến "điên"
đã liên tục tham gia vào các biến cố chính trị quân sự
của "thế giới miền núi". Cuộc khởi nghĩa, nổi loạn của Pa Chay thời cận hiện đại, cuộc khởi
nghĩa lớn nhất dưới thời Pháp thuộc ở vùng miền núi Đông Dương có phát xuất từ chính
niềm tin cứu thế tộc người. Hình ảnh ông vua Mèo Đồng Văn oai phong và quyền lực một
thời, trong một lớp nghĩa nhất định, cũng chính là thị hiện cho ông vua H’mông và "vương
quốc H’mông" hằng mong chờ trong tâm thức tập thể tộc người.
Bằng một cách thức kiểu H’mông, khi động cơ chính trị được thúc đẩy bởi các niềm
tin tôn giáo, cá tính quyết liệt kiêu hùng và khát vọng tự trị, H’mông phân tán nhưng kiên
định, đã tiến vào lịch sử Việt Nam từ các đỉnh núi.