NHỮNG ĐỈNH NÚI DU CA - Trang 228

Chu Thiên còn cung cấp bức tranh hỗn loạn dưới triều Nguyễn, khi cho biết các tộc thiểu số
khắp nơi, liên kết hoặc riêng lẻ cùng dân cả nước nổi loạn chống triều đình, trừ 101 vụ ở
ngoài tràn vào thì có đến 500 cuộc bạo loạn ở bên trong quốc gia (Chu Thiên 1960).
Woodside đưa ra số liệu: thời Gia Long có 105 cuộc khởi nghĩa, thời Minh Mạng có gần
200 cuộc khởi nghĩa (Choi Byung Wook 2011: 208). Một tư liệu khác lại cho biết theo ghi
chép của sử nhà Nguyễn (Thực Lục) thì 17 năm đời Gia Long có trên 50 cuộc khởi nghĩa
lớn nhỏ. 20 năm trị vì của Minh Mạng với triều đại cường thịnh nhất của nhà Nguyễn
nhưng có đến 200 cuộc khởi nghĩa chống triều đình. Thời Thiệu Trị chi 7 năm ngắn ngủi có
gần 50 cuộc khởi nghĩa (Lịch sử Việt Nam 1971: 382 - 383). Phan Đại Doãn cho biết thêm,
theo sự ghi chép của Thực Lục, "từ Gia Long năm đầu (1802) đến Tự Đức năm cuối (1883)
đã có hơn 350 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, trong đó thời Tự Đức là nhiều nhất". Cụ thể hơn:
"Trong 17 năm đời Gia Long đã có 90 cuộc đấu tranh khắp mọi miền đất nước. Đời Minh
Mạng là thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Nguyễn cũng có trên 230 cuộc, trong đó năm nhiều
nhất (1833) có 37 cuộc và năm ít nhất (1838) có 4 cuộc; đời Thiệu Trị chỉ trong 7 năm cũng
có 58 cuộc đấu tranh"

[176]

.

Các cuộc nổi loạn ấy, được biết đến với danh xưng phổ biến ở giới nghiên cứu trong

và ngoài nước

[177]

là "phong trào nổi dậy của nhân dân", hay "phong trào nông dân Việt

Nam", "khởi nghĩa nông dân". Sử gia Nguyễn Phan Quang trong công trình quan trọng
Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX (1986) đã phục dựng lại khá sinh động
bức tranh nổi dậy của "nông dân Việt Nam" theo cách hiểu của ông

[178]

. Và dù chỉ là bối

cảnh 50 năm đầu thế kỷ XIX, nhưng nó là tiêu biểu. Nguyễn Phan Quang đã trình bày
"phong trào nông dân" rộng khắp, ở miền xuôi, trung du và núi, phía bắc và nam. Nguyễn
Phan Quang đã lí giải căn nguyên của sự nổi dậy ồ ạt của nông dân trong thời Nguyễn "thối
nát" chủ yếu trên mấy luận điểm sau: 1/ nạn tư hữu, chiếm đoạt ruộng đất quá lớn ở giai
cấp bóc lột, địa chủ, cường hào, quan lại, được hậu thuẫn thêm bởi chính sách sai lầm, thiên
tư của nhà Nguyễn khi tước đoạt ruộng của dân để biến thành quân điền, quan điền ưu tiên
quan lại, binh lính; 2/ nạn tham nhũng; 3/ không chăm lo thỏa đáng cho nông nghiệp như
không chú ý đắp đê để xảy ra nạn đê vỡ (18 năm triều Gia Long, Thực Lục cho biết, chỉ có
47km đê công được tu sửa. Đê Khoái Châu (Hưng Yên) thời Tự Đức vỡ 10 năm liền...) 4/
chính sách công thương nghiệp lỗi thời, ngoại giao mắc sai lầm nghi kị phương Tây khiến
triều Nguyễn "quay lưng với thế giới bên ngoài. Duy trì những tri thức cũ kỹ đến kỳ quái"
(1986: 22); 5/ duy trì bộ luật phản động, sao chép luật nhà Thanh "sản phẩm chế độ phong
kiến ở giai đoạn suy vong nhằm đàn áp phong trào đấu tranh nhân dân" (1986: 31). Quan
điểm của Nguyễn Phan Quang là khá tiểu biểu cho các sử gia chính thống khi tìm hiểu về
căn nguyên bạo loạn dưới thời Nguyễn. Nguyễn Phan Quang khi viết công trình trên, rõ
ràng đưa lại ít nhất hai kết luận quan trọng sau: 1/ chứng minh cho chế độ phong kiến (mà
ở đây là nhà Nguyễn) đã đến độ suy vong tột cùng, nên bộc lộ các mặt phản động. Vì thế,

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.