NHỮNG ĐỈNH NÚI DU CA - Trang 230

về tộc người thiểu số, một hướng đáng khích lệ

[179]

, dường như lại chỉ quan sát các sự kiện

trên tinh thần khối Đại Đoàn Kết (luôn viết hoa), vì thế, vẫn là quán tính Việt tâm luận. Các
sử gia ấy, do vậy, chỉ nhìn thấy ở động thái chính trị - quân sự người thiểu số là "chung một
gương mặt chung một tấm lòng" với các toan tính, mục đích như của nông dân ở đồng bằng
- nhân dân cần lao nổi dậy chống lại sự "thối nát" của triều đình phong kiến, chống Bắc
xâm và sau này là Tây xâm. Một tập hợp theo thời gian các "phong trào" nổi dậy của người
thiểu số chống chính quyền, chống ngoại xâm là lối trình bày quen thuộc của các quyển sử
viết về nổi loạn chống chính quyền đồng bằng của các cư dân miền núi.

Nhưng những phân tích sử liệu để lại cho thấy nổi loạn chống triều đình của tộc người

thiểu số không đơn giản chỉ là "phụ vào" cùng các nổi loạn của nhân dân miền xuôi. Sự chủ
động của các nổi loạn thiểu số cần được ghi nhận cho đúng hơn với tính chất của từng vụ
việc để có thể nhận thức được sự phức tạp của quá khứ. Tâm quan trọng của chính trị tộc
người thiểu số, như thế, là lớn hơn lối suy nghĩ đã thành nếp hằn tư duy bấy lâu ở chúng ta.
Trường hợp khởi nghĩa Lê Duy Lương là tiêu biểu. Cái tên Lê Duy Lương được lấy làm tên
của một cuộc khởi nghĩa lớn từ núi rừng Thanh Hóa dễ làm cho người ta có nhầm tưởng về
vị trí quan trọng của viên thủ lĩnh này, mà các nhóm thiểu SỐ đi theo Lương chỉ là đám
người mang ý đồ "phù Lê". Sự thực thì anh chàng tôn thất hậu duệ của đoàn quân Mường
Thanh Hóa năm xưa, mà bây giờ là nhà hậu Lê mạt vận - Lê Duy Lương chỉ là một quân cờ
tội nghiệp trong tay các thủ lĩnh Mường họ Quách ở Sơn Âm (ứng với vùng Nho Quan -
Ninh Bình). Năm 1816, khi cha Lương là Lê Duy Hoán bị triều đình nhà Nguyễn giết chết,
Lương mới chỉ 3 tuổi. Các thủ lĩnh Mường ở Sơn Âm đã chứa chấp, bao che và nuôi dưỡng
Lương để 17 năm sau mưu sự lớn. Trong khởi nghĩa Lê Duy Lương, quân lực chủ yếu là
người Mường và đám dân nghèo đói khổ ở đồng bằng xiêu tán theo lên. Cuộc nổi loạn là
nghiêm trọng khi triều Nguyễn phải huy động hàng vạn quân đối địch và nỗi lo của Minh
Mạng là có cơ sở: "Ta cho loại nghịch Vân là loại giặc nhỏ không ví như Lê Duy Lương"
(Thực Lục 2004 T.3: 731). Ta hiểu đây chỉ là một lối nói của nhà vua nhằm "úy lạo", "trấn
an" tinh thần quân sĩ nhiều hơn là ông thực bụng nghĩ vậy. Hoàng đế là người hiểu hơn cả
sự nguy hiểm của cả giặc Vân lẫn giặc Lương, sự khốn đốn của quân đội Nguyễn khi dẹp
hai loạn Vân, Lương làm bằng chứng cho nỗi lo của triều đình. Ban đầu, Minh Mạng còn
tin rằng, Lương là kẻ chủ mưu, lợi dụng "sự ngu muội của dân Mường, Mán" và các thủ
lĩnh họ Quách, họ Đinh là những kẻ không biết phân biệt phải trái mà lầm lạc tin theo:
"Gần đây, họ Quách bị bọn thủ nghịch Lê Duy Lương lừa lọc, dụ dỗ, thật là do bọn chúng
tự sa vào vòng tội vạ, làm lụy đến cả ông cha ở suối vàng" (Thực Lục 2004 T.3: 950-951).
Nhưng đúng như Nguyễn Phan Quang (1986: 171-185) đã phân tích diễn biến khởi nghĩa
và chuyển biến trong nhận thức của Minh Mạng về căn nguyên cuộc khởi nghĩa đã thay đổi
hẳn sau khi bắt được bọn Lương, mà như lời Thực Lục là "bắt được kẻ kỳ khôi" đưa về
Huế, chém đầu bêu khắp ba miền rồi ném xuống biển những mong tình hình đã yên. Nhưng

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.