sẽ có một hình thức xã hội tiến bộ hơn thay thế; 2/ chứng minh cho mâu thuẫn giai cấp của
nông dân và tầng lớp bóc lột phong kiên là sâu sắc và đấu tranh giai cấp là tất yếu. Như thế,
rõ ràng, các lí giải của Nguyễn Phan Quang và những người cùng ý hướng với ông là nhằm
chứng minh thuyết phục cho các quan điểm của thuyết marxism: tiến hóa xã hội, mâu thuẫn
và đấu tranh giai cấp. Dù được cấp trước một mô hình để lí giải lịch sử, thì sự lí giải của
Nguyễn Phan Quang ở một số mặt là có cơ sở hợp lý. Có điều, nó không là tất cả.
Nhìn từ núi, vấn đề nổi loạn của "nông dân" sẽ phải được lí giải thêm từ các hệ tri thức
khác, bởi nó vượt ra khỏi các nguyên nhân dẫn đến nổi loạn như phân tích của Nguyễn
Phan Quang. Đầu tiên là vấn đề "khởi nghĩa nông dân". Các thủ lĩnh xuất thân đồng bằng
như Ba Nhàn, Tiền Bột, Phan Bá Vành, trong chừng mực thì có thể tin được xuất thân nông
dân. Thế nên mô hình của Nguyễn Phan Quang là tương thích hơn với các trường hợp ấy,
cũng như các trường hợp khởi nghĩa khác nếu các thủ lĩnh của nó xuất thân từ dân cày.
Nhưng với các trường hợp nổi loạn thường xuyên của các lang đạo Mường, thổ ty Tày hay
quan chức triều đình, dòng quí tộc địa phương, thì rõ ràng xuất thân của họ không phải là
nông dân, mà là, người cai trị nông dân. Vì thế, hiển nhiên căn nguyên của nổi loạn dưới
thời Nguyễn là phức tạp hơn cụm từ "khởi nghĩa nông dân". Sử gia Choi Byung Wook khá
xác đáng khi nhận định về vấn đề này: "tôi cho rằng nhiều cuộc khởi nghĩa không phải chỉ
đơn thuần là do tình trạng náo động của nông dân mà là sự nổi dậy của người dân tộc thiểu
số" (2011: 208). Choi cũng lưu ý, nếu chúng ta không đánh giá đúng vai trò của khởi nghĩa
tộc người, thì khó mà nắm bắt được bức tranh tộc người phức tạp của Việt Nam thế kỷ
XIX.
Nên, trở lại với tâm sự Tự Đức trong Ngồi yên tự hỏi bụng mình, rõ ràng các nổi loạn,
ở đây là nổi loạn liên quan đến tộc người chứ không phải khởi nghĩa nông dân nên đã vượt
ra khỏi xét đoán của nhà vua. Nhà Nguyễn theo tư duy Tự Đức vẫn duy trì chế độ thế tập
cát cứ, vẫn cấp đủ bổng lộc, thổ ty các vùng không phải đói khổ, nếu đổ cho tham nhũng thì
không phải... Vậy do đâu, Tự Đức tự hỏi bụng mình, các thủ lĩnh quí tộc thiểu số vẫn liên
tục nổi dậy chống triều đình. Nhìn từ núi, câu trả lời sẽ là mâu thuẫn sắc tộc. Nhưng trước
khi đi vào chủ đề trọng tâm mâu thuẫn sắc tộc là căn nguyên lớn dẫn đến nổi loạn ồ ạt dưới
thời nhà Nguyễn. Ta cần nhận thấy, chính trị tộc người đã tham dự rất sâu vào đời sống
nước Việt Nam thời Nguyễn.
Tôi không dám chắc, nhưng tôi tin là các sử gia khi trình bày về các vụ bạo loạn thế
kỷ XIX đều dễ dàng nhận thấy ở các vụ xô xát đẫm máu giữa triều đình và quân nổi loạn có
sự góp mặt tích cực của tộc người thiểu số. Nhưng vì những lí do gì đó, như chỉ thấy các
khởi nghĩa ấy là "nông dân" chứ không phải sắc tộc, hay khác đi, là đà quán tính lớn trong
cách nhìn lịch sử Việt Nam như-là-những-sự-kiện-của-người- Việt, quán tính Việt tâm luận.
Các sử gia về người Việt, vì thế, đã bỏ qua tính chất quan trọng của tộc người. Các sử gia