miền núi được sáp nhập vào lãnh thổ đã đem lại cho Đại Việt một nguồn lợi không nhỏ
Thế nhưng, công cuộc Tây tiến quan trọng ấy lại chưa được chú ý đúng mức. Hơn thế, cuộc
Tây tiến của Nhà Lý là đặc biệt bởi những động thái chính trị của Đại Việt là mang khá
đậm dấu ấn chính trị kiểu quốc gia Ấn Độ hóa. Nhà Lý đã vượt thoát khỏi não trạng Hoa
Di, duy trì quan hệ hôn nhân dị chủng bang giao hòa hiếu để thu phục nhân tâm. Sử thần
triều Nguyễn nhìn ra chính xác cái động co chính trị của việc Nhà Lý chủ động gả công
chúa "ồ ạt" cho các châu mục miền núi: "Nhà vua sợ khó lòng khống chế được họ, nên mới
kết mối giao hảo bằng cuộc hôn nhân để ràng buộc họ" (Cương mục 2007 T.1: 288). Lãnh
thổ Đại Việt thời Lý, cứ thế, rộng lớn dần sau mỗi cuộc hôn nhân của Thăng Long với các
châu mục miền núi. Lãnh thổ ấy, thêm bền vững với các chính sách khoan hòa nhân ái như
những lần chinh phạt Nùng Trí Cao, khoan dung mà tha chết cho Cao và còn phong Thái
Bảo. Tất cả những động thái "chinh phạt" bằng ngoại giao ấy, thu phục phiên bang bằng
hôn nhân dị chủng ẩn đằng sau là hành vi chính trị mang dấu ấn khoan dung Phật giáo
.
Biện pháp chính trị khôn ngoan và nhân bản trong mô hình chính trị miền núi kiểu Lý
đã tạo nên những dòng châu mục đời đời làm phò mã như họ Thân (Giáp). Nền chính trị
huyết tộc nối dài ấy đã tạo thành tấm phên dậu kiên cố che chắn cho Thăng Long những lúc
phải đối mặt với xâm lược phương Bắc. Chính trị nhân bản và mềm mỏng với tộc người
vùng cao, một tiền đề tiêu biểu là ứng xử của triều Lý với nổi loạn Trí Cao. Toàn thư chép:
Nùng Trí Cao làm loạn, 1041 Thái Tông bắt được nhưng tha tội và ban cho các động Lôi
Hỏa, Bình, Bà, Tân và châu Tư Lang, rồi hai năm sau (1043) còn phong Thái Bảo (chức vụ
vào loại cao nhất trong quan chế Lý). Sau này, năm 1053, khi Trí Cao bị nhà Tống vây
khổn, cùng đường nhưng Cao vẫn nghĩ đến ân tình Nhà Lý năm xưa đã cưu mang mình,
nên sai Lương Châu tới Đại Việt xin tiếp viện (Toàn thư 1998 T.1: 269). Nhà Lý lập tức cho
chỉ huy sứ Vũ Nhị xuất quân ứng cứu, nhưng đến nơi biết sự đã rồi, liền rút quân về. Sự
kiện này, về sau sử thần Lê Văn Hưu bình luận cho rằng vua Nhà Lý đã bị đạo Phật mê
hoặc nên "thiên về việc nhỏ mà quên mất nghĩa lớn của nước". Về ý kiến của Hưu, Hoàng
Xuân Hãn đã nhận định xác đáng "sử gia không hiểu thâm ý của vua Lý Thái Tông"
(Hoàng Xuân Hãn 2003: 95). Nhưng dù có những thiên lệch theo tinh thần Hoa Di trong
những nhận định, thì sử quan Nho giáo vẫn phải nhận thấy công lao mở cõi của Nhà Lý lên
vùng Đông Bắc và sự lo liệu việc biên giới là công nghiệp to lớn, mà nói như Ngô Sỹ Liên:
"về thế nước thì không đời nào mạnh bằng đời Nhà Lý" (Phan Huy Chú 2014: 487). Sử
thần Ngô Sỹ Liên và Phan Huy Chú có cùng chung nhận định: Nhà Lý là thời cường thịnh,
việc biên giới, được nhà Tống nhiều lần trả lại đất trước "oai thắng trận", "thế cường thịnh"
(Phan Huy Chú 2014: 487-488). Sử thân nhà Nguyễn, cũng vậy, chép về mạn Đông Bắc
như một vùng mà cương giới còn lưu động. Các vị vua Nhà Lý rất quan tâm mở cõi lên
vùng ấy (Hội điển Sự lệ 1993). Sự quan tâm Tây tiến của Nhà Lý đặt nặng lên vùng Đông
Bắc bởi ít nhất hai lí do: 1/ Mạn Đông Bắc là lối hành quân xâm lược chủ đạo của Trung