người thiểu số. Do thế, Việt Nam thời trung đại (mà quán tính của nó, còn rơi rớt mãi tới
tận hiện đại) đã không nhìn thấy vị trí xứng đáng của những người thiểu số trong lịch sử.
Não trạng Hoa Di luôn tồn tại chi phối chính trị Việt Nam
, theo qui luật: nhạt nhất vào
khoảng Lý - Trần khi quốc gia còn ngả theo mô hình Đông Nam Á và Ấn Độ hóa; tăng dần
vào thời Lê Sơ; và sau đó, lên đến cực độ với vương triều Nguyễn lựa chọn theo Tân
Khổng giáo. Vương triều Nguyễn, nơi mà lịch sử trung đại Việt Nam chứng kiến sự lên
ngôi của não trạng Hoa Di và tư tưởng Đế Vương, vì thế, dẫn đến những rạn nứt lớn lao
thành những xung đột liên miên giữa miền núi và đồng bằng.
Chính trị Việt Nam, mà đương nhiên là chính trị của đồng bằng, trong thế ứng xử với
miền núi luôn duy trì một truyền thống tốt đẹp được biết đến từ Vương triều Lý với việc
vượt qua giới hạn Hoa Di để liên kết thân tộc với các thủ lĩnh miền núi. Nhà Lý, dù luôn
cứng rắn trấn áp những nổi loạn cứng đầu, ân uy đầy đủ và khoan dung với các nổi loạn
biết "ăn năn", nhưng hơn hết, đã dành cho các tộc người đủ sự tôn trọng và quan trọng là sự
tự trị tộc người. Ở nhà Nguyễn, những tồn tại tốt đẹp mang lại ổn định kiểu Lý ấy đã bị phá
bỏ. Trong đấy, chính trị kiểu Nguyễn là một tham vọng xuyên suốt muốn xóa bỏ tự trị tộc
người và loại trừ quyền lực (thủ lĩnh) địa phương. Tham vọng của nhà Nguyễn, về cơ bản
đã thất bại. Nạn nhân mãn đầu thế kỷ XX, tự thân nó sẽ xua đuổi các dòng người lũ lượt
miền xuôi dồn lên núi sẽ "thực hiện một cách không chủ ý" những ý đồ của triều Nguyễn.
Và suốt thế kỷ XX, với những đợt di dân đồ sộ từ miền xuôi lên miền núi, sẽ chấm dứt
hoàn toàn quyền lực địa phương "tiểu quốc" tộc người bằng "thực dân hóa nội địa". Những
gì thuộc về mô hình quyền lực miền núi mà tôi đang luận bàn ở đây, về cơ bản, chỉ giúp soi
sáng cho quá khứ của miền núi Việt Nam.
Nên trở lại quá khứ, vương triều Lý, mang tinh thần Phật giáo đã không chấp nhặt Hoa
Di mà duy trì quan niệm bình đẳng về chủng tộc (Hoàng Xuân Hãn 2003: 89). Việt sử lược
và Toàn thư đã ghi chép rất nhiều việc vua Nhà Lý gả công chúa cho các châu mục, đồng
thời, Thăng Long còn lựa chọn cả con gái châu mục đưa về cung làm hoàng phi
. Hôn
nhân bang giao Đại Việt được chép khá nhiều trong chính sử các đời (một danh sách vắn tắt
xem Hoàng Xuân Hãn 2003: 77-96; Nguyễn Hải Kế 2014: 37-46). Về sự kiện này, Hoàng
Xuân Hãn cho biết, thời Lê Hoàn, cương vực nước Việt Nam chỉ ứng với trung nguyên, tức
châu thổ, không bao gồm phân núi non ở Đông và Tây. Đến thời Lý, công cuộc chinh phục
miền núi cao và trung du thành công đã đua lại diện mạo mới cho nước Đại Việt thời ấy,
mở rộng hơn lãnh thổ quốc gia. Nhà Lý kết hợp chiêu dụ và uy hiếp để thu phục các vùng
núi cao, nhà Tống khi biết thì đã muộn màng bởi Nhà Lý đi trước một bước thâu tóm cả
một vùng đất đai miền núi rộng lớn vào lãnh thổ quốc gia (Hoàng Xuân Hãn, 2003). Công
cuộc Tây tiến mở rộng lãnh thổ của Đại Việt, được mở ra bởi Nhà Lý, sang Trần và phát
triển vào thời Lê, như thế là đáng kể, bởi: 1/ về cương vực lãnh thổ: Tây tiến đã nới rộng về
mặt hành chính
gấp gần 3 lần diện tích quốc gia nếu so với thời Lê Hoàn. 2/ Về kinh tế: