NHỮNG ĐỈNH NÚI DU CA - Trang 235

Dưới thời Lý và Trần, không khó để tìm thấy những minh chứng cho sự liên kết núi và

đồng. Biên niên sử Việt Nam lưu giữ một thói quen cố hữu là liệt kê các sự kiện theo dòng
thời gian. Qua đó, ta dễ dàng nhận thấy luôn tồn tại một bức tranh sát cánh cùng chiến đấu
chống Hán xâm và cùng chung hân hưởng niềm vui chiến thắng giữa núi non và đồng bằng
trong nước Việt Nam cổ truyền mỗi khi đối diện với họa xâm lăng từ phương Bắc. "Thất
tộc phiên thần" với sự nổi lên của họ Thân (Giáp) nhiều đời làm phò mã Thăng Long đã
luôn sát cánh cùng các vương triều Lý, Trần trong các cuộc chiến bảo toàn vương quyền và
chủ quyền của quốc gia Đại Việt. Sự chiến thắng đầy ý nghĩa trước nhà Minh của đoàn
quân Mường Lam Sơn được lãnh đạo bởi ông Lang mường Lam Lê Lợi, với sự tham dự
quan trọng của các tù trưởng Thái, Tày đã mở ra một thời kỳ thịnh trị lâu dài trong lịch sử.
Miền núi Đông Bắc đã cưu mang vương triều Mạc suy tàn; miền núi Tây Nguyên và vựa
lúa Nam Bộ với sự trợ giúp đắc lực của người Hoa và Khơ-me, Chăm cùng vật sản dồi dào
là các mặt hàng ưa chuộng của mạng lưới hải thương được cưng cấp bởi những người
Thượng là sức mạnh kinh tế của các chúa Nguyễn; Lê - Trịnh ở Bắc, cũng tích cực khai
thác nguồn lợi rừng núi để xuất khẩu, trao đổi thông qua các tuyến buôn bán đường biển
quốc tế. Đã có ba Việt Nam [dựa khá nhiều vào núi] cùng tồn tại trong khoảng thời gian thế
kỷ XVI - XVII. Tiếp đó, những người đến từ miền núi phía Tây như tên địa danh tháp vào
tên tuổi ba anh em Tây Sơn, các thương nhân

[183]

nắm "nguồn" An Khê, Bình Định với sự

hậu thuẫn khá đáng kể của các đội quân gốc tộc người đã nổi dậy chiếm các đồng bằng
thành công, bắt đầu vương triều Nguyễn Tây Sơn - mà sau đó, lại phân ba, dù có thể vẫn
chia xẻ chung bởi một ý thức hệ được gia đình trị bởi ba anh em Huệ - Lữ - Nhạc. Và ngay
cả Nguyễn Gia Long thời kỳ trứng nước lập quốc, cũng đã dựa vào một đội quân có thành
phần tộc người phức tạp nhất thế kỷ XIX để gây sức manh đối kháng nhà Tây Sơn.

Sự tham dự là quan trọng của miền núi với đồng bằng, như thế, là rất lớn. Thông

thường, nó được các sử gia và các nhà dân tộc học trình bày trên hai trục - cũng là hai "lối"
làm việc quen thuộc lâu nay khi muốn nhấn mạnh tính chất miền núi đối với miền xuôi:

[1] Lối trình bày theo kiểu biên niên, liệt kê các sự kiện tiêu biểu của chính trị - quân

sự miền núi đối với miền xuôi. Đây là cách trình bày phổ biển của các nhà nghiên cứu Xã
hội chủ nghĩa trước đây và tồn tại đến nay. Lối trình bày này, bị chi phối của tinh thần dân
tộc chủ nghĩa đã duy trì cố ý thành quán tính quan điểm về tồn tại "vững chắc" "truyền
thống đoàn kết đấu tranh chống ngoại xâm của các tộc người (dân tộc anh em) ở Việt
Nam". Và như họ hình dưng, mọi tộc người Việt Nam từ khởi thủy đã tồn tại vững chắc
tình cảm "thương yêu, đoàn kết, đùm bọc lấy nhau" và chung một "nghĩa vụ thiêng liêng
bảo vệ đất nước, chống kẻ thù chung" (Lã Văn Lô, 1973; và...). Quan điểm đơn tuyến này,
đã đánh mất tính phức hợp của thực tại Việt Nam đa tộc người, đa ý hệ với những tồn tại
liên đới chồng chéo lên nhau bởi nhiều nguyên nhân và hệ quả. Sự thực thì, chỉ khi nào các
chính sách ở đồng bằng đối với miền núi tỏ ra cấp tiến thì đồng bằng khi ấy sẽ chiếm được

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.