đạo [như của Cadière (BEFEO 1906: Tome VI), Cosserat (BAVH 1926: Tome VIII), Laurent (BAVEl 1928: Tome
XV), Enjolras (BAVH 1932: Tome XIX)], nhà địa phương học nổi tiếng H. Le Breton (BAVH 1935: Tome XXII;
1936: Tome XXEI; và...) đã nhìn ra một hệ quả quyết định của chiến thắng Nguyên (nhà Trần), chiến thắng Minh
(nhà Lê): "điều quan trọng cần phải nhớ kỹ, sỏ dĩ có những cuộc tổng phản công đem lại chiến thắng cho người An
Nam là nhờ có con đường thượng đạo" (1936: Tome XXIII; 2014: 65-66). Le Breton mở rộng quan điểm đã nhấn
mạnh đặc biệt đến ý nghĩa quan trọng, như một chiến lược của tư duy về con đường thượng đạo với toàn bộ lịch sử
Việt Nam.
Đường thượng đạo, con đường được kiến tạo bởi các tộc thiểu số, men theo các triền núi không đứt quãng từ
Bắc Kỳ, qua Trung Kỳ đến tận Lang Biang, nhìn rộng trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, từ cổ trung đến cận
hiện đại, đường thượng đạo có ý nghĩa địa-chính trị quan trọng, nhiều phen mang tính quyết định cho vận mệnh
Việt Nam. Đường thượng đạo thuộc về tất thảy những kẻ yếu, lẩn trốn, phản công, buôn lậu ("con đường muối"),
cướp bóc và nuôi ý chí phản kháng các quyền lực đồng bằng. Đường thượng đạo, do đó, cũng chính là "đường
hành quân" đồng thời là "đường tẩu thoát" quen thuộc của các nghĩa quân Việt Nam chống các thế lực xâm lược.
Thế kỷ XI, khi đường Thiên lí Bắc - Nam được mở ra bởi triều Lý ở đồng bằng, đường Thượng đạo không còn giữ
vai trò giao thông huyết mạch Nam - Bắc, nhưng nó vẫn giữ nguyên tính quan trọng do "tính chất núi" của "chính
trị đường mòn". Thời hiện đại, đường thượng đạo ứng với con đường mang tên "đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ"
mang ý nghĩa huyết mạch trong chiến thắng của những người cộng sản. Năm "đường mòn" quan trọng, trong đấy,
cổ điển nhất là "đường mòn trên biên" và "đường mòn trên núi" - những nẻo đường mòn Zomia là những mạch
máu nuôi dưỡng và cấp sức mạnh chiến thắng, vượt qua mọi sự kiểm soát của Pháp và Mỹ ở đồng bằng giúp người
Việt Nam hiện đại đấu tranh dành độc lập thắng lợi (Đặng Phong 2008). Phần lịch sử hiện đại của các nẻo đường
mòn trên núi - phần sử Việt Nam nhìn từ núi, bước đầu đã có người đề cập đến; nhưng phần quan trọng và lâu dài
hơn rất nhiều của cả ngàn năm lịch sử đường mòn trên núi - đường thượng đạo, thì tiếc thay vẫn chìm khuất dưới
bóng những khu rừng, dù, rừng ngày nay không còn già, mà là trẻ - rừng tái sinh lưa thưa cây phủ đồi núi trọc.
Vương triều Lê mà bộ luật còn nhiều điểm tiến bộ của họ đối với miền núi đã tạo ra sự
ổn định trong suốt thời gian dài. Nhà Lê (cả Lê sơ và Lê - Trịnh), như nhiều tác giả nhận
xét vẫn tiếp nối truyền thống chính trị thời Lý - Trần đối với miền núi (Lê Thành Khôi
2014; Đàm Thị Uyên 2007), thừa nhận quyền lực địa phương tộc người, duy trì sự tự trị và
chế độ đời đời thế tập của thổ ty đã không đối diện với vấn nạn tộc người phía Bắc suốt cả
thời gian dài.
Thời Nguyễn, trong ý chí của vương triều cuối cùng của Việt Nam này, tồn tại trong
căn não tầng lớp cai trị cấp cao ý đồ muốn xây dựng một trung tâm vũ trụ khác, mang tính
quốc tế ở phương Nam. Sử gia Choi Byung Wook đã chỉ ra một cụm từ để miêu tả hiện
thực xã hội Việt Nam thế kỷ XIX là "thân, biền, hán, thổ" (2011: 213). Choi cho biết thêm:
"Hán ngụ ý chỉ người, ngôn ngữ hay phong tục của Việt Nam mà không phải Trung Hoa"
(Choi Byung Wook 2011: 217). Hán ở đây, được biết là tên hiệu của triều đại cổ ở phía Bắc