suy yếu của hải quân thời sau Minh Mạng, bạo loạn tộc người đã cô lập sức mạnh nhà
Nguyễn, dẫn đến sự thất bại khá thảm hại khi đối diện với phườn Tây.
Trở lại bối cảnh Nam Kỳ khi mà Nguyễn Phúc Anh còn đang lận đận gây dựng thanh
thế chống Tây Sơn. Bối cảnh chính trị quân sự thời ấy cho thấy, dân thiểu số ở đây có một
vị trí quan trọng mà Tạ Chí Đại Trường (2011: 261) nhận thấy "ảnh hưởng của họ thật lớn
lao" và sự chia sẻ quyền lực với người Việt là hữu hiệu. Quân đội của Nguyễn Phúc Ánh, vì
thế, dễ hiểu được cấu trúc trên nền tảng đoàn quân đa sắc tộc: "Trong lịch sử Việt Nam đầu
thế kỷ XIX, chứng ta không thể tìm thấy ở đâu đội quân đa dạng về chủng tộc hơn đội quân
của Nguyễn Phúc Ánh" (Choi Byung Wook 2011: 61). Tính chất đa dạng về chủng tộc của
quân đội Nguyễn Phúc Ánh còn mở rộng ra ngoài cả bờ cõi miền Nam lẫn biên cương Đại
Việt hôi ấy. Quân đội của Phúc Ánh còn tranh thủ được cả tình cảm của các tộc người thuộc
vương quốc Vạn Tượng, các thổ ty ở Thanh Ba, Hưng Hóa đều theo về hưởng ứng lập
nhiều kỳ tích trong kháng chiến chống Tây Sơn. Mối quan hệ thân thiết của Gia Long với
Ai Lao thể hiện rõ nhất ngay khi lên ngôi, Gia Long cảm kích tấm lòng Chiêu Ấn đã sát
cánh cùng quân đội phục quốc của ông mà trả đất Trấn Ninh về lại cho vua Ai Lao (Trương
Bá Phát - Thái Việt Điểu 1968). Một tác giả khác, khi đề cập đến Gia Long cũng cho biết:
"Ông cũng biết thực hiện một chính sách khôn khéo liên kết hữu nghị với các nước láng
giềng và với các nhóm dân tộc ít người. Chính nhờ liên minh với các tù trưởng người
Mường ở Thanh Hóa và người Thái ở Hưng Hóa mà ông đã có thể đánh úp quân Tây Son
trong giai đoạn cuối của cuộc chiến. Khi ở Gia Định, ông được Lào cung cấp những bản đồ
Nghệ An và Phú Xuân quí giá. Lào cũng hỗ trợ cho ông một đơn vị quân sự vào năm 1801"
(Lê Thành Khôi 2014: 4000)
Gia Long nhận được sự ủng hộ của những người thiểu số bởi ông đã tôn trọng các lí
do tồn tại của bản địa. Ví dụ, ở Gia Định, ông đã tôn trọng cấu trúc đa sắc tộc vốn có của
vùng đất và hơn thế, duy trì đảm bảo quyền tự trị đối với người thiểu số như đã làm với
người Khmer. Một sự kiện tiêu biểu, năm 1791, khi nhận được tin người Việt xâm lấn vùng
Trà Vinh, Sóc Trăng, Nguyễn Phúc Anh đã yêu cầu tất cả người Việt chấm dứt ngay việc
xâm lấn và phải hoàn trả tất cả những đất được yêu cầu cho người Khmer" (Choi Byung
Wook 2011: 62-63). Tuy thế, cũng thật trớ trêu, và phải thừa nhận Choi đã tinh tế khi nhận
thấy nguyên nhân sâu xa trong những chính sách của Nguyễn Phúc Ánh là: "mong muốn
không khích động người dân Khmer
nhưng cũng còn một lí do khác. Đó là ý tưởng của
Nguyễn Phúc Ánh về "người Việt và những người rợ phải có một đường biên rõ ràng" hoặc
"Hán Di hữu hạn"" (Choi Byung Wook 2011: 63). Quan niệm này đã chi phối Nguyễn Phúc
Ánh sâu sắc. Sau này, khi dành được quốc gia, Ánh khi ấy là hoàng đế Gia Long đã thực thi
chính trị "Hán Di hữu hạn" ngay trong chính luật pháp nhà nước. Hoàng Việt luật lệ có một
điều luật thể hiện rõ nét tinh thần phân định Hán Di: "Nhân dân các địa phưcmg kết hôn với
người vùng biên viễn (phía Nam là vùng Cao Miên, Thuận Thành, phía bắc là dân Nùng,