bằng lối "đặt chức quan ngoài" (lưu quan)
. Kế hoạch xóa bỏ quyền lực thổ quan, trong
ý chí chính trị Minh Mạng được xem trọng như "kế hoạch an ninh vĩnh cữu", mà mạn Đông
Bắc là đích nhắm quan trọng được nhấn mạnh nhiều lần (Minh Mệnh chính yếu 2010:
1691,1711). Việc xóa bỏ quyền lực thế tập của thổ ty, một điều đại cấm kỵ với uy quyền
thần quyền miền núi "đời đời thế tập" bởi các dòng họ đặc tuyển mang tính chất bán nhân
thân, trước Minh Mạng, kể cả Gia Long cũng chưa từng thực hiện (Nguyễn Minh Tường
1993). Thêm nữa, Minh Mạng học theo chính sách đối phó với miền núi "cải thổ qui lưu"
bên Tàu dưới triều Minh - Thanh, bởi, theo lời "bọn đình thân [Nguyễn] hội bàn, thì đó là:
"chính sách hay trong việc giữ nước trị dân. Nếu mô phỏng mà làm, tưởng cũng có lợi
nhiều lắm" (Thực Lục 2004 T.3: 226; Đàm Thị Uyên 2007). Chính sách "cải thổ qui lưu"
bên Tàu, áp dụng đầu tiên lên vùng người Miêu tại Vân Nam và Quí Châu đã gây nên
phong trào bạo loạn dữ dội ở người Miêu. Và sự tháo chạy của người Miêu sau những loạn
lạc do chính sách cải thổ qui lưu, chính đã hình thành nên dòng người H’mông Việt Nam và
nhiều nơi ở Đông Nam Á. Nhà Nguyễn, cũng như nhà Thanh, đều nhận sự phản kháng
quyết liệt bởi các chính sách bá quyền và độc tài áp đặt lên vùng tộc người.
2/Về văn hóa - giáo dục: thực hiện chính sách văn hóa giáo dục đồng hóa sâu rộng:
Minh Mệnh chính yếu cho biết năm 1838, với con cháu thủ lĩnh thiểu số: con trai các tù
trưởng Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn được chọn đi học ở trường Quốc học Quốc tử
giám Huế (Choi Byung Wook 2011: 214; Minh Mệnh chính yếu 2010: 1721). Thực Lục,
Hội điển sự lệ cũng cho biết Minh Mạng đã lệnh cho các tuần phủ, bố án thượng ty các tỉnh
biên giới xem xét, chọn con em thổ dân miền núi tuấn tú, thông minh đưa về kinh cho học
ở Quốc tử giám. Minh Mạng muốn tạo ra lớp tri thức tinh hoa thiểu số thấm nhuần
Hán/Kinh tục (sử nhà Nguyễn thường gọi là Hán phong) để dễ bề cai trị. Chính sách giáo
dục "Kinh hóa" còn được thực thi sâu rộng đối với tất cả "thổ dân": Thực Lục chép Vua đã
đồng ý với lời tấu của Tuần phủ Thuận - Khánh Tôn Thất Lương: "Nguyên 7 tổng thổ dân
Thuận Thành đã từng đổi quan người Thổ, bổ quan người Kinh, nên kịp thời dạy bảo để
dần dần thay đổi. Xin chọn học trò trong hạt, người có chút học hạnh, chước miễn cho binh
đao, đặt làm tổng giáo, mỗi tổng 1 người, để dạy dỗ con em thổ dân học biết tiếng Kinh,
chữ Kinh" (Thực Lục 2004 T.5: 406-407). Nhà Nguyễn, do đó, để thực hiện công cuộc
giáo/đồng hóa sâu rộng đã cho mở trường học nhiều nơi thuộc miền núi. Kiến tạo mới căn
cước tộc người theo nguyên tắc Kinh/Việt hóa - một tâm thức thực dân văn hóa - nhà
Nguyễn tiến hành đặt họ theo lối Kinh cho các tộc thiểu số (Minh Mệnh chính yếu 2010:
1687,1722).
3/ Về tôn giáo: các tác giả người Pháp đưa ra thông tin: "Người An Nam và người
Khmer (Cambodgienne) đã từng chung sống thuận hòa với nhau trong một khoảng thời
gian dài, nhưng tình trạng ấy đã nhanh chóng thay đổi. Bắt đầu vào thời Minh Mạng, người
đã kế vị cha mình là Gia Long vào năm 1820, các quan lại An Nam đã muốn người Khmer