từ bỏ phong tục tập quán cổ xưa để tuân theo luật lệ người An Nam; và đó là nguyên nhân
chính của hàng chuỗi các cuộc nổi loạn đẫm máu làm tiêu điều cả đất nước" (Monographie
1903: 31-32). Khởi nghĩa của viên quan Khmer Lâm Sâm đầy màu sắc tôn giáo chính là
một phản kháng cụ thể đối địch lại hành động cấm thực hành tôn giáo bản địa Khmer.
Chính sách cấm đạo được mở rộng danh sách hơn khá nhiều, không chỉ đối với Ki-tô giáo
mà đối với cả "tà đạo" thiểu số nhiều nơi.
4/ Về kinh tế: bãi bỏ chế độ cống nạp mà thu tô thuế, bắt lao động, binh dịch ở miền
núi như đối với miền xuôi. "Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, kể từ triều Lý, Trần
đến Lê, Tây Sơn chưa một triều đại nào có thể thực hiện chế độ địa tô và thu thuế ở vùng
dân tộc thiểu số" (Nguyễn Minh Tường 1993). Dưới triều Minh Mạng, như thế, lần đầu tiên
quốc gia Việt Nam trung đại đã áp đặt triệt để "một logic" - "logic Kinh/Việt" lên toàn thể
xã hội Việt Nam vốn đa hệ thống tộc người. Các "logic khác" - "logic thiểu số" bị ép buộc
phải dẹp bỏ đã chịu đựng những đàn áp, điều đó trở thành căn nguyên thúc đẩy bạo loạn tộc
người - sự vùng lên của những logic bị áp chế như đã diễn ra ở nước Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XIX.
Như thế, quyền tự trị của các tộc người, điều được các vương triều trước đó duy trì ở
mức đảm bảo đủ sự tôn trọng, giờ đây, đã bị xúc phạm và đe dọa nghiêm trọng dưới thời
Minh Mạng và triều Nguyễn nói chung. Hoàng đế Minh Mạng, dù đầy khôn khéo
nhưng ý chí bá quyền mãnh liệt trên khắp đế chế rộng lớn của ông nắm quyền đã thúc đẩy
Minh Mạng không ngừng áp đặt ý chí Việt/Hán hóa lên các vùng núi - nơi tồn tại các logic
khác. Đó là nguyên nhân trực tiếp của hàng loạt vụ nổi loạn qui mô lớn mà người miền núi
đã tích cực tham gia hoặc là chủ thể chính của các cuộc nổi loạn, như loạn Phan Bá Vành,
loạn Lê Duy Lương, loạn Nông Văn Vân,... ở miền Bắc, và loạn Lê Văn Khôi, Lâm Sâm,...
ở miền Nam. Những người kế vị sau Minh Mạng cũng không làm thuyên giảm sự tồi tệ
trong quan hệ miền núi và miền xuôi. Thiệu Trị và Tự Đức tiếp tục quán tính của tinh thần
cai trị với ý đồ đồng hóa cứng rắn. Chương trình Sơn phòng được đặt ra áp dụng ở miền núi
Quảng Ngãi và Bình Định thất bại bởi sự lừa đảo được hợp pháp hóa và tham nhũng của
lớp quan lại đã gây tâm lí hoang mang cho người miền núi (Salemink 2008: 22). Hậu quả
tai hại của nó là bạo loạn "mọi Đá Vách" kéo dài hơn nửa thế kỷ. Ở miền núi, biện pháp
"cải thổ qui lưu" tiếp tục gây ra sự bất mãn của các thế lực chính trị tộc người từ Nam ra
Bắc. Vương triều Nguyễn có lẽ là vương triều đã chứng kiến sự bất mãn và nổi loạn của tộc
người mạnh mẽ nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam
. Các vua nhà Nguyễn, có lẽ đã
không quên di huấn tổ tiên "thuơng yêu các dân tộc"
. Nhưng tình thương yêu ấy, nếu
có, đã được thực thi không đúng kiểu. Thay vì dành sự tốt đẹp cho tộc người bằng cách tôn
trọng những tồn tại khác biệt để đảm bảo ổn định, và liên kết trong quốc gia đa tộc người,
nhà Nguyễn đã muốn dành sự "tốt đẹp" cho kẻ khác bằng cách buộc họ phải trở thành như
chính mình. Kết quả nhà Nguyễn đã thực hiện một quá trình mà hiểu như Condominas là