Mán). Kẻ nào vi phạm thì bắt phải li dị, nếu là dân thường thì chiểu theo luật vi phạm chế
luật, xử phạt 100 trượng. Nếu là thổ tù thông sự thì cho giảm một mức, đều bị sử phạt 90
trượng. Quan địa phương nếu biết rõ sự tình mà cứ dung túng thì giao cho bộ xét xử.
Trường hợp đã cưới xin sinh con nối dõi từ trước rồi thì an trí ở bản địa cho làm dân, không
cho lai vãng về xã, kẻ nào vi phạm sẽ chiếu theo luật bắt ưng trọng, xử phạt 80 trượng" (Cổ
luật 2009: 450). Điều luật này cho thấy mối "lo xa", nhằm "đánh chặn" sự liên kết với thiểu
số qua hôn nhân, mà liên kết với thiểu số, qua chính trị thân tộc là bền chặt nhất (điều mà
Lý - Trần đã thực thi thành công). Nên không khó hiểu khi luật Gia Long cần phòng bị như
một cơ chế răn đe qua luật định. Nhưng đồng thời, điều luật ấy cũng thể hiện sự phân chia
địa vị, đẳng cấp của người Việt (Hán) và dân thiểu số (Thổ), như thế, là hố ngăn sâu dưới
thời Nguyễn
. Điều này, như tôi đã nhấn mạnh, là một trong những căn nguyên dẫn đến
sự bất hợp tác và tình trạng bạo loạn của tộc người thiểu số đối với người Việt cầm quyền
thế kỷ XIX. Truyền thống gả công chúa cho các thủ lĩnh tộc người thiểu số (ở miền Bắc)
đến thời các vua nhà Nguyễn, về cơ bản, đã chấm dứt
. Truyền thống của nhà nước - gia
đình (quốc - gia) thông qua liên kết thân tộc hôn nhân miền núi đồng bằng đã không được
nhà Nguyễn sử dụng như quá khứ chính trị của Việt Nam từng tồn tại. Điều đó, dần dần dẫn
đến sự tan vỡ khối liên kết các hệ thống chính trị ở Việt Nam. Quan niệm "hán di hữu hạn"
dù bộc lộ những mặt thủ cựu của nó, nhưng dẫu sao, nó vẫn còn giữ cho sự tồn tại tộc
người quyền tự trị - ngay trong chính tính chất "hữu hạn" ngăn cách giữa đồng bằng và
miền núi mà nó đặt ra. Và vì còn được giữ khoảng cách "hữu hạn", nghĩa là đảm bảo sự tự
trị nhất định, nên thời Gia Long dù đã bộc lộ những bất ổn nhưng chưa đẩy đến cao trào
như dưới thời Minh Mạng trong quan hệ với người miền núi.
Minh Mạng - người con trai quyết đoán và sắt đá của Gia Long tiến thêm một bước
trong ý đồ xóa bỏ thế lực tộc người khi thực hiện chính sách đồng hóa trên nhiều phương
diện để "nắm đầu" các thế lực thiểu số. Minh Mạng đã không duy trì lằn ranh phân chia
Hán - Di, mà tích cực thực hành ý đồ khai hóa và đồng hóa
toàn quốc. Điểm qua một vài sự kiện để thấy được động thái đồng hóa và khai hóa "man
di" dưới triều Minh Mạng diễn ra khá quyết liệt, ít nhất trên ba phương diện: Chính trị, văn
hóa giáo dục và tôn giáo.
1/ Về chính trị: Minh Mạng tiếp nối Gia Long hợp thức hóa quyền lực miền núi về với
vương triều bằng cách phân phong chức tước cho thổ ty. Mạnh mẽ hơn, Minh Mạng tạo
dựng hệ thống "chính trị lưỡng đầu": Kinh - Thổ cùng cai trị vùng núi, để dần dần, gạt Thổ
dành phần cai trị còn lại cho Kinh. Minh Mạng tiến hành phân chia lại đơn vị hành chính cổ
truyền tộc người như các mường bằng cách chia nhỏ ra thành xã, huyện như ở miền xuôi.
Điều này, đồng nghĩa việc xé lẻ sức mạnh quyền lực các mường cổ truyền. Nặng nề nhất là
chương trình xóa bỏ thế tập ở vùng thổ ty, giảm trừ sức mạnh thổ quan, và dần thay thế