Trung Hoa, nó mang nghĩa là "tốt", hoặc "lòng tốt", "uy tín", "to lớn", "rộng lớn", "thuần
khiết", và "trung tâm" hoặc ở "giữa". Hán nhân hoặc Hán dân có nghĩa chỉ người Việt khác
với người Hoa được hiểu là Đường nhân hoặc Thanh nhân (Choi Byung Wook 2011: 217).
Người Việt thế kỷ XIX khi tự xưng mình là Hán nhân nhằm ý nghĩa xác nhận vị thế trung
tâm vũ trụ (Trung Hoa) mà các tộc người ngoại biên là man, di. Một quan chức nhà Nguyễn
nổi tiếng ở vùng miền núi Đá vách là Tĩnh man Tiễu phủ sứ Nguyễn Tử Vân, do vậy,
thường dùng từ Hán dân để chỉ người Kinh/Việt, còn Man là dành chỉ người Thượng (Ôn
Khê Nguyễn Tử Vân 2011). Thế giới quan của triều Nguyễn, vì thế là đặc biệt. Tsuboi phân
tích cho thấy triều Nguyễn duy trì niềm tin là thượng đẳng hơn so với Thanh triều gốc tộc
Mãn Châu, những kẻ theo Nho giáo không thuần khiết. Giống như nhà Chu dù nhỏ bé trong
lãnh thổ Trung Hoa thuở xưa nhưng là lý tưởng theo kinh điển Khổng giáo, nhà Nguyễn
chủ trì niềm tin quốc gia như là một đế chế Trung Hoa ở phương Nam theo đúng lý tưởng
Khổng giáo, bảo vệ truyền thống đạo lý thánh nhân (mà giờ đây đã bị "suy đốn" bởi bọn
"man di" Mãn tộc) (Tsuboi 2011: 152- 156). Tsuboi nhận định, nhà Nguyễn "ít nhiều tu
tưởng tự tôn về mặt văn hóa" so với Mãn Thanh ở Bắc Kinh (2011:153). Điều này, trước
đấy, đã được Woodside nhận thấy: "Năm 1805, vua Gia Long coi Việt Nam là "vương quốc
trung tâm" hay Trung Quốc. Thuật ngữ tiếng Hán thông thuòng được dùng để chỉ Trung
Hoa, nhưng trong tay người Việt, nó lại trở thành khái niệm trừu tượng không có sự tham
khảo địa lý nào. Nó biến đổi thành một cụm từ có khả năng được dùng để chỉ bất kỳ vương
quốc nào được lập nên trên cơ sỏ những nguyên tắc kinh điển Trung Hoa, khi nhận thấy
xung quanh mình bị bao bọc bởi những kẻ man di không được giáo hóa" (Trần Quang Đức
2013: 25). Nhà Nguyễn từ đó, như một lựa chọn có chủ đích nhằm Trung Hoa hóa triệt để
quốc gia theo Khổng giáo, phát huy tinh thần Hoa Di và, lẽ dĩ nhiên, nhà Nguyễn phải thực
hành sứ mệnh khai hóa thực dân kiểu Khổng giáo như đúng tinh thần của sách Luận ngữ:
Người quân tử ở đâu thì nơi đó [được khai hóa] mà không còn bỉ lậu nữa. Chính bởi niềm
tin về một đế chế Trung Hoa chính trực và hùng mạnh ở phương Nam [thể hiện qua việc
đổi tên quốc gia thành Đại Nam] là động cơ để nhà Nguyễn từ não trạng phân định "hán di
hữu hạn" nhằm "cùm nhốt" thiểu số trong lãnh địa của mình đã biến chuyển sang khai hóa
man di ("dùng Hạ biến di" - Mạnh Tử). Tư tưởng bành trướng đế chế Nguyễn lên đến đính
điểm dưới thời Minh Mạng khi cương vực lãnh thổ được mở rộng đáng kể, và sức mạnh
trên biển được khẳng định. Cứ xem An Nam Đại Quốc Họa Đồ của Jean-Louis Taberd vẽ
năm 1838 đủ biết đế chế Minh Mạng bành trướng rộng lớn. Tuy thế, đi kèm với sự bành
trướng đế chế Nguyễn theo tinh thần Hán hóa cao độ là hệ lụy của một sự đoạn tuyệt với
truyền thống chính trị Việt Nam vốn xa lạ với thuyết Man di kỳ thị chủng tộc khá cực đoan
dưới các vua triều Nguyễn. Điều ấy lí giải cho nhà Nguyễn, đặc biệt là thời Minh Mạng và
sau đó, là sân khấu của tấn kịch rối ren các bạo loạn sắc tộc. Các công hầu khanh tướng uy
phong một thời, triền miên phải lo đối phó đánh dẹp bạo loạn, nhiều khi sự vụ khó khăn
đến nỗi khốn đốn, nhiều lần bị Minh Mạng mắng chửi biếng nhác, ăn hại
. Cùng với sự