“À!” người lạ mặt nhanh nhảu lên tiếng, đưa mắt về phía tôi. “Ngôi
nhà thờ đơn độc nằm ngay cạnh đầm lầy, bao quanh là những ngôi mộ!”
“Phải rồi,” Joe nói.
Người lạ mặt, vừa hầm hừ thật thoải mái từ trong khuôn miệng ngậm
tẩu vừa gác cả hai chân lên ghế ông ta có riêng cho mình. Ông ta đội một cái
mũ đi đường rộng vành, và dưới cái mũ là một chiếc khăn tay buộc túm để
đội đầu; vậy là ông ta chẳng để lộ ra sợi tóc nào cả. Trong khi người lạ mặt
nhìn vào bếp lửa, tôi nghĩ tôi đã trông thấy một cái nhìn ma mãnh, tiếp theo
là một nụ cười nửa miệng, hiện lên trên khuôn mặt ông ta.
“Tôi không quen thuộc lắm với vùng này, thưa các quý ông, nhưng
có vẻ đây là một vùng đất ven sông khá cô tịch.”
“Phần lớn các vùng đầm lầy đều cô tịch,” Joe nói.
“Hẳn rồi, hẳn rồi. Ở quanh đây các vị có tìm thấy người Di gan,
những kẻ lang thang vô gia cư đủ loại không?”
“Không,” Joe nói, “chẳng có gì ngoài một gã tù trốn năm thì mười
họa. Và yên tâm đi, bây giờ chúng ta không tìm thấy họ đâu. Phải không,
ông Wopsle?”
Ông Wopsle, với bộ dạng đạo mạo nhớ lại lần mất hứng ngày trước,
thừa nhận; nhưng chẳng mấy hào hứng.
“Có vẻ như ông từng đi lùng bắt một tên như thế?” người lạ mặt hỏi.
“Một lần,” Joe đáp. “Ông biết đấy, cũng chẳng phải là chúng tôi
muốn bắt họ; chúng tôi chỉ đi theo để xem thôi; tôi, ông Wopsle và Pip. Phải
vậy không, Pip?”
“Vâng, anh Joe.”
Người lạ mặt lại nhìn tôi - và tiếp tục nheo mắt, như thể cố tình ngắm
vào tôi bằng khẩu súng vô hình của ông ta - rồi nói, “Trông cậu bạn trẻ này
có vẻ xương xẩu thật. Ông gọi cậu bé là gì nhỉ?”
“Pip,” Joe nói.
“Pip là tên thánh à?”