cây, phá vỡ hình dạng tán cây ban đầu và có màu khác hẳn, như thể chỗ
bánh pudding đó bị dính vào chảo và cháy sém vậy. Đó là ý nghĩ giản dị của
tôi trong khi tôi ngắm nhìn cây hoàng dương. Trước đó đã có tuyết rơi nhẹ
trong đêm, và từ những gì tôi biết, không còn tuyết đọng lại ở bất cứ đâu;
nhưng tuyết vẫn chưa tan hết trong khoảnh vườn nằm dưới bóng râm lạnh
ngắt này, và gió vun cuốn tuyết lên thành từng cuộn rồi hắt về phía cửa sổ,
như thể để ném tôi vì đã bén mảng tới chỗ đó.
Tôi nhận ra sự xuất hiện của mình đã làm cuộc trò chuyện trong
phòng dừng lại, và tất cả những người còn lại trong phòng đều đang nhìn tôi.
Tôi không nhìn thấy gì trong căn phòng ngoài ánh sáng của lò sưởi phản
chiếu trên kính cửa sổ, nhưng cả người tôi cứng lại vì ý thức được mình
đang bị săm soi thật kỹ.
Trong phòng có ba quý bà và một quý ông. Tôi đứng bên cửa sổ
chưa được năm phút thì không hiểu sao họ khiến tôi cảm thấy tất cả họ đều
là những kẻ bợ đỡ bịp bợm, song mỗi người đều giả bộ không hề biết những
người còn lại là những kẻ bợ đỡ bịp bợm; vì ai thừa nhận biết rõ điều đó sẽ
để lộ bản thân là kẻ bợ đỡ bịp bợm.
Tất cả họ đều có vẻ bơ phờ ủ rũ chực lấy lòng ai đó, và người lắm lời
nhất trong đám quý bà đã phải nói một cách khá cứng nhắc để nén cái ngáp
dài. Quý bà có tên Camilla này làm tôi nghĩ rất nhiều tới chị tôi, có khác là
bà ta già hơn, và (như tôi nhận ra khi thấy mặt bà này) có nét mặt đờ đẫn
hơn. Kỳ thực, khi biết về quý bà này rõ hơn, tôi bắt đầu nghĩ nguyên việc bà
ta mang bất kỳ nét mặt nào cũng đã là một ơn huệ lớn nếu tính đến khuôn
mặt lạnh lùng cao ngạo như một bức tường chết chóc của quý bà này.
“Kẻ khốn khổ!” quý bà này lên tiếng, với phong cách cộc cằn khá
tương đồng với chị tôi. “Anh ta chỉ tự hại mình thôi!”
“Hại ai khác thì sẽ đáng khen ngợi hơn nhiều,” người đàn ông nói,
“như thế tự nhiên hơn.”
“Anh họ Raymond,” một quý bà khác lên tiếng, “chúng ta phải yêu
quý hàng xóm láng giềng của mình.”