Trời đã tối đen khi buổi đọc sách kết thúc và tôi cùng ông Wopsle lên
đường đi bộ về nhà. Ra ngoài thị trấn, chúng tôi bắt gặp một màn sương mù
dày đặc buông xuống ướt sũng, mờ mịt. Ngọn đèn của trạm thu lộ phí chỉ là
một quầng lờ mờ, có vẻ như nằm khác hẳn vị trí bình thường của nó, và ánh
sáng nó tỏa ra trông giống như một khối rắn bên trong sương mù. Chúng tôi
nhận ra điều này, và đang nói với nhau về chuyện sương mù tan dần khi gió
đổi chiều từ phía một khu đầm lầy ở trong vùng thì bắt gặp một người đang
ngồi thõng vai dưới mái che của nhà trạm.
“Xin chào!” chúng tôi dừng lại gọi. “Có phải Orlick đó không?”
“A!” anh ta thõng vai đáp lại. “Tôi đang đứng đây đợi một phút thôi,
hy vọng tìm được ai đi cùng.”
“Anh về muộn,” tôi nhận xét.
Orlick trả lời như thường lệ, “Thế thì sao? Mày cũng về muộn.”
“Chúng tôi,” ông Wopsle nói, vẫn còn lâng lâng với màn trình diễn
mới rồi của mình, “ông Orlick, chúng tôi đã trải qua một buổi tối mở mang
tri thức.”
Orlick Già lầm bầm, như thể anh ta chẳng có gì để nói về chuyện đó,
và chúng tôi cùng nhau đi tiếp. Tôi lập tức hỏi anh xem có phải anh đã trải
qua nửa ngày được nghỉ tha thẩn trong thị trấn hay không?
“Phải,” anh ta nói, “cả nửa ngày. Tao đi vào thị trấn sau mày. Tao
không thấy mày, nhưng chắc tao cũng chỉ ngay đằng sau mày thôi. Mà nhân
đây, người ta lại bắn súng đấy.”
“Ở chỗ mấy cái tàu nhốt tù ạ?” tôi hỏi.
“Phải! Lại có vài con chim sổ lồng. Súng đã bắn suốt từ lúc chập tối.
Tí nữa thể nào mày cũng nghe thấy cho mà xem.”
Quả thực chúng tôi chỉ mới đi được thêm vài thước thì những tiếng
súng tôi vẫn còn nhớ như in lại vọng tới, bị màn sương mù át bớt đi, nặng nề
rền vang theo triền đất thấp ven sông, như thể đang đuổi theo đe dọa những
kẻ đào tẩu.