“Ôn Jaggerth! Nửa giây thôi! Ngay pút lày đây thiền củ tôi đang
thới trỗ ôn Wemmick, để trấp nận bớt cứ đèo kiện nào củ ôn ấy. Ôn
Jaggerth! Một phần tám giây thôi! Nếu ngài vui nòng để được mua lại từ
pía bơn kia - theo bớt cứ dá cao hưn nào!… tiền không thành vấn đề… ôn
Jaggerth… ôn…!”
Người bảo trợ của tôi hất kẻ cầu xin ra với vẻ dửng dưng tột bực, để
mặc ông ta nhảy tâng tâng trên vỉa hè như thể nó đang nóng đỏ. Không để bị
làm gián đoạn thêm, chúng tôi về tới văn phòng đằng trước, tại đây chúng
tôi gặp ông trợ lý và người đàn ông mặc áo nhung đội mũ lông.
“Đây là Mike,” ông trợ lý nói, đứng xuống khỏi ghế đẩu và đầy tự
tin tiến lại gần ông Jaggers.
“A!” ông Jaggers thốt lên, quay sang người đàn ông, người đang giật
giật một lọn tóc ở giữa trán mình hệt như con bò tót trong “Ai giết chim cổ
đỏ” đang kéo dây chuông vậy, “người của ông đưa tới chiều nay. Thế nào?”
“À, luật xư Jaggers,” Mike đáp lại với giọng của một người bị nhiễm
lạnh, “xau rất nhiều khó khăn, tôi đã tìm được một người có vẻ phù hợp,
thưa ngài.”
“Anh ta sẵn sàng tuyên thệ những gì?”
“À, luật xư Jaggers,” Mike nói, lần này đưa cái mũ lông lên chùi
mũi, “nói chung là bất cứ tứ dì.”
Ông Jaggers đột nhiên trở nên giận dữ. “Nào, tôi đã cảnh cáo ông từ
trước rồi,” ông nói, chỉ ngón trỏ vào vị khách đang kinh hoàng, “nếu có lúc
nào ông dám nói năng kiểu đó ở đây, tôi sẽ phạt ông làm gương. Đồ du đãng
chết bằm kia, ông lại dám nói thế với tôi hả?”
Vị khách có vẻ sợ chết khiếp, nhưng cũng đầy hoang mang, như thể
không hiểu mình đã làm gì.
“Đồ ngớ ngẩn!” Người trợ lý lúc này hạ giọng xuống nói, đồng thời
thúc cùi chỏ vào ông ta. “Đồ dở hơi! Ông có cần nói thẳng trước mặt thế
không?”