xuôi mọi thứ; nhưng nếu từng có lúc như thế thì nó đã qua rồi. Tớ muốn hỏi
liệu đã bao giờ cậu có cơ hội để thấy ở quê cậu rằng những đứa không thực
sự thích hợp cho hôn nhân lại luôn đặc biệt nóng lòng kết hôn nhất hay
không?”
Đây quả là một câu hỏi độc đáo, đến mức tôi hỏi lại cậu, “Thật thế
sao?”
“Tớ không rõ nữa,” Herbert nói, “đó là điều tớ muốn biết. Vì chắc
chắn đó là trường hợp gia đình tớ. Cô em gái Charlotte tội nghiệp của tớ,
đứa em kế ngay sau tớ và đã mất trước khi tròn mười bốn tuổi, là một ví dụ
rõ ràng. Cô bé Jane cũng thế. Với khao khát được yên bề gia thất của cô bé,
cậu có thể cho rằng cô bé đã trải qua cả cuộc đời ngắn ngủi của nó không
ngừng chờ đợi niềm hạnh phúc gia đình. Thằng bé Alick còn đeo yếm dãi
cũng đã được thu xếp chuyện hôn nhân với một quý cô trẻ tuổi phù hợp ở
Kew. Và quả thực tớ nghĩ tất cả mấy anh em tớ đều đã hứa hôn, trừ bé út.”
“Vậy là cậu đã hứa hôn rồi?” tôi hỏi.
“Đúng thế,” Herbert nói, “nhưng đó là một bí mật.”
Tôi cam đoan với cậu sẽ giữ bí mật, và nài nỉ được biết nhiều hơn.
Cậu đã nói thật sinh động và đầy cảm xúc về sự yếu đuối của tôi, vì thế tôi
muốn biết ít nhiều về sự mạnh mẽ của cậu.
“Tớ có thể hỏi tên nàng được chứ?” tôi nói.
“Tên là Clara,” Herbert đáp.
“Sống ở London?”
“Phải, có lẽ tớ cần phải nói rõ,” Herbert nói, cậu đã trở nên ỉu xìu
hẳn xuống một cách thật lạ từ lúc chúng tôi đề cập tới chủ đề thú vị này, “là
nàng có lẽ hơi thấp kém so với những khái niệm phù phiếm về gia đình của
mẹ tớ. Công việc của bố nàng trước đây có liên quan tới cung cấp thực phẩm
cho các tàu chở khách. Tớ nghĩ ông là một thủ quỹ.”
“Giờ ông ấy làm gì?” tôi hỏi.
“Giờ ông là người tàn tật,” Herbert nói.
“Và đang sống…?”