“Khu đất thuộc về em. Đây là tài sản duy nhất em chưa phải từ bỏ.
Mọi thứ khác đã dần dần rời khỏi tay em, nhưng em đã giữ lại nơi này. Nó là
chủ đề cho cuộc kháng cự kiên quyết duy nhất em từng làm trong suốt
những năm khốn khổ đó.”
“Nơi này sẽ được xây lại chứ?”
“Cuối cùng sẽ là thế. Em tới đây để chia tay nó trước khi nó thay đổi.
Còn anh,” cô nói, với giọng nói đầy quan tâm thật xúc động dành cho một
kẻ lang thang, “anh vẫn sống ở nước ngoài chứ?”
“Vẫn vậy.”
“Và thành đạt, em chắc vậy phải không?”
“Anh làm việc rất cần mẫn cho một cuộc sống vừa đủ, và vì thế -
phải, anh thành đạt.”
“Em vẫn hay nghĩ về anh,” Estella nói.
“Thật thế sao?”
“Gần đây, rất thường xuyên. Đã có một quãng thời gian dài khắc
nghiệt khi em giữ cách xa khỏi mình ký ức về thứ em đã ruồng bỏ khi em
không hề biết giá trị của nó. Nhưng kể từ khi bổn phận của em không còn
xung khắc với việc chấp nhận ký ức ấy, em đã dành cho nó một chỗ trong
trái tim mình.”
“Em vẫn luôn giữ một chỗ trong trái tim anh,” tôi trả lời. Và chúng
tôi lại im lặng cho tới khi cô lên tiếng.
“Em không hề nghĩ,” Estella nói, “là em sẽ được chia tay anh khi
chia tay nơi này. Em rất mừng được làm như thế.”
“Mừng khi lại chia tay sao, Estella? Với anh, chia ly là một điều đau
khổ. Với anh, ký ức về lần chia tay cuối cùng của chúng ta vẫn luôn đầy
phiền muộn và đau khổ.”
“Nhưng anh đã nói với em,” Estella trả lời rất tha thiết, “ ‘Mong
Chúa ban phước lành cho em, mong Chúa tha thứ cho em!’ Và nếu anh có
thể nói với em như thế khi đó, anh sẽ không do dự nói thế với em vào lúc
này - lúc này, khi sự giày vò đã mạnh hơn mọi dạy dỗ, và đã dạy cho em